Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Bùi Quang Dũng
Số trang: 0
Loại file: pdf
Dung lượng: 182.62 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết "Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá" trình bày một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá như: Di dân nông nghiệp, giảm nghèo, công bằng xã hội, an sinh xã hội, phát triển xã hội nông thôn,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Bùi Quang Dũng 26 Xã hội học, số 1 - 2009 MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI NÔNG THÔN VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI HOÁ, CÔNG NGHIỆP HOÁ BÙI QUANG DŨNG Sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam hơn hai thập kỷ qua gắn liền với sự nghiệp Đổi mới, trong đó nội dung căn bản là công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Nông thôn là khu vực yếu nhất của nền kinh tế khi đất nước Đổi Mới, nhưng là điểm khởi động quá trình này. Đổi Mới đã thực sự tạo ra tăng trưởng và phát triển xã hội nông thôn thông qua việc cải cách hợp tác xã nông nghiệp, tự do hoá giá cả, giảm dần vai trò của khu vực Nhà nước. Sự phát triển theo hướng thị trường đã tạo ra những đột phá quan trọng: thu nhập bình quân đầu người tăng hơn 3 lần (từ năm 1996 tới 2007), mức tích luỹ của hộ gia đình nông dân tăng gấp 2,1 lần (Trần Đình Thiên, 2008); nền kinh tế nông thôn vượt bỏ cái ngưỡng “mưu sinh”, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Giao đất cho nông dân làm chủ, công nhận kinh tế hộ gia đình đã tạo ra động lực mạnh mẽ cho hàng triệu hộ nông dân tăng đầu tư dài hạn và mở rộng sản xuất nông nghiệp. Về mặt xã hội, mô hình sản xuất gia đình “là một động lực làm phục hồi hệ thống tôn ty trật tự vốn là chỗ dựa cho các gia đình Việt Nam” (Kerkvliet, 2000). Quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội nông thôn có những tiến triển đáng kể v.v... Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và việc hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế quốc tế đã tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế cùng với phát triển các chỉ số xã hội, và hiện nay đang xuất hiện các vấn đề mới. Bài viết này góp phần thảo luận về một vài vấn đề phát sinh từ quá trình thay đổi kinh tế xã hội đang diễn ra hiện nay tại nông thôn. Tài liệu tham khảo là những cuộc điều tra nông thôn, các báo cáo nghiên cứu của các tổ chức Việt nam và quốc tế. Trong một chừng mực nhất định, người viết cũng đặt cho mình nhiệm vụ tóm lược quan điểm của một số học giả hữu quan về chủ đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân ở Việt Nam hiện nay. Di dân nông nghiệp Năm 2006 cả nước có 24,37 triệu lao động làm việc trong ngành nông nghiệp, nhưng riêng khu vực nông thôn đã có 23,17 triệu người, chiếm 95,1%. Nếu so với tổng lao động có việc làm của cả nước thì lao động nông nghiệp, nông thôn chiếm khoảng 52%. Về mặt cơ cấu lao động, giai đoạn 1996 - 2006 tỷ lệ lao động nông nghiệp nông thôn đã có chuyển biến, giảm từ 82,3% trong tổng lao động nông thôn năm 1996 xuống còn 69% năm 2006, bình quân mỗi năm giảm được trên 1%, mức giảm còn nhỏ so với một số nước trong khu vực. Lao động nông thôn chiếm tới 3/4 lao động cả nước nhưng lại tập trung chủ yếu trong ngành nông nghiệp, nơi năng suất lao động thấp và cũng là nơi Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Bùi Quang Dũng 27 quỹ đất canh tác ngày càng giảm. Tình trạng mất đất hoặc thiếu đất dẫn đến dư thừa lao động và thiếu việc làm. Thu nhập của lao động nông nghiệp do đó trở nên thấp và thất thường bởi tính thời vụ và rủi ro cao. Đây chính là lí do khiến tỷ lệ nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn. Trọng tâm của câu chuyện giảm nghèo là tạo thêm việc làm, giảm thất nghiệp, hấp thụ số nhân lực mới tham gia lực lượng lao động, nhất là ở khu vực nông thôn. Nhiều hộ gia đình nông thôn đã di cư đến các khu vực thành thị để kiếm việc làm. Trước Đổi Mới, việc di cư đến các thành phố bị kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống hộ khẩu. Hiện nay, những hạn chế về đi lại đã được dỡ bỏ, mặc dù những người di cư vẫn cần phải có được giấy phép tạm trú. Giống như ở các nước đang phát triển, di dân ở Việt Nam là một hiện tượng có tính quy luật, thể hiện rõ nét tính chất của một nền kinh tế và xã hội quá độ. Di chuyển lao động là một đòi hỏi tất yếu khách quan, biểu hiện rõ nét nhất sự phát triển không đều giữa các vùng lãnh thổ. Những khác biệt về mức sống, thu nhập, sức ép sinh kế, tiếp cận dịch vụ xã hội theo vùng là nguyên nhân cơ bản tạo nên các dòng di cư hiện nay. Di dân có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng đối với một xã hội đang hiện đại hoá và một nền nông nghiệp đang chuyển đổi, di cư chủ yếu là câu chuyện tìm kiếm công ăn việc làm. Tình trạng đất chật, người đông và điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (ở một số vùng miền Trung), lượng thời gian nông nhàn và tình trạng thiếu việc làm tại chỗ đã đẩy một bộ phận dân cư di chuyển sang các vùng khác để tìm kiếm thu nhập. Luồng di cư có thể là từ nông thôn đến nông thôn hoặc từ nông thôn ra thành thị. Sự phân bố không đồng đều của các luồng vốn đầu tư nước ngoài với sự tập trung cao ở khu vực miền Nam đã tạo nên một luồng di cư rất mạnh mẽ từ các vùng khác nhau vào khu vực Đông ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Bùi Quang Dũng 26 Xã hội học, số 1 - 2009 MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI NÔNG THÔN VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI HOÁ, CÔNG NGHIỆP HOÁ BÙI QUANG DŨNG Sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam hơn hai thập kỷ qua gắn liền với sự nghiệp Đổi mới, trong đó nội dung căn bản là công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Nông thôn là khu vực yếu nhất của nền kinh tế khi đất nước Đổi Mới, nhưng là điểm khởi động quá trình này. Đổi Mới đã thực sự tạo ra tăng trưởng và phát triển xã hội nông thôn thông qua việc cải cách hợp tác xã nông nghiệp, tự do hoá giá cả, giảm dần vai trò của khu vực Nhà nước. Sự phát triển theo hướng thị trường đã tạo ra những đột phá quan trọng: thu nhập bình quân đầu người tăng hơn 3 lần (từ năm 1996 tới 2007), mức tích luỹ của hộ gia đình nông dân tăng gấp 2,1 lần (Trần Đình Thiên, 2008); nền kinh tế nông thôn vượt bỏ cái ngưỡng “mưu sinh”, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Giao đất cho nông dân làm chủ, công nhận kinh tế hộ gia đình đã tạo ra động lực mạnh mẽ cho hàng triệu hộ nông dân tăng đầu tư dài hạn và mở rộng sản xuất nông nghiệp. Về mặt xã hội, mô hình sản xuất gia đình “là một động lực làm phục hồi hệ thống tôn ty trật tự vốn là chỗ dựa cho các gia đình Việt Nam” (Kerkvliet, 2000). Quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội nông thôn có những tiến triển đáng kể v.v... Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và việc hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế quốc tế đã tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế cùng với phát triển các chỉ số xã hội, và hiện nay đang xuất hiện các vấn đề mới. Bài viết này góp phần thảo luận về một vài vấn đề phát sinh từ quá trình thay đổi kinh tế xã hội đang diễn ra hiện nay tại nông thôn. Tài liệu tham khảo là những cuộc điều tra nông thôn, các báo cáo nghiên cứu của các tổ chức Việt nam và quốc tế. Trong một chừng mực nhất định, người viết cũng đặt cho mình nhiệm vụ tóm lược quan điểm của một số học giả hữu quan về chủ đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân ở Việt Nam hiện nay. Di dân nông nghiệp Năm 2006 cả nước có 24,37 triệu lao động làm việc trong ngành nông nghiệp, nhưng riêng khu vực nông thôn đã có 23,17 triệu người, chiếm 95,1%. Nếu so với tổng lao động có việc làm của cả nước thì lao động nông nghiệp, nông thôn chiếm khoảng 52%. Về mặt cơ cấu lao động, giai đoạn 1996 - 2006 tỷ lệ lao động nông nghiệp nông thôn đã có chuyển biến, giảm từ 82,3% trong tổng lao động nông thôn năm 1996 xuống còn 69% năm 2006, bình quân mỗi năm giảm được trên 1%, mức giảm còn nhỏ so với một số nước trong khu vực. Lao động nông thôn chiếm tới 3/4 lao động cả nước nhưng lại tập trung chủ yếu trong ngành nông nghiệp, nơi năng suất lao động thấp và cũng là nơi Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Bùi Quang Dũng 27 quỹ đất canh tác ngày càng giảm. Tình trạng mất đất hoặc thiếu đất dẫn đến dư thừa lao động và thiếu việc làm. Thu nhập của lao động nông nghiệp do đó trở nên thấp và thất thường bởi tính thời vụ và rủi ro cao. Đây chính là lí do khiến tỷ lệ nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn. Trọng tâm của câu chuyện giảm nghèo là tạo thêm việc làm, giảm thất nghiệp, hấp thụ số nhân lực mới tham gia lực lượng lao động, nhất là ở khu vực nông thôn. Nhiều hộ gia đình nông thôn đã di cư đến các khu vực thành thị để kiếm việc làm. Trước Đổi Mới, việc di cư đến các thành phố bị kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống hộ khẩu. Hiện nay, những hạn chế về đi lại đã được dỡ bỏ, mặc dù những người di cư vẫn cần phải có được giấy phép tạm trú. Giống như ở các nước đang phát triển, di dân ở Việt Nam là một hiện tượng có tính quy luật, thể hiện rõ nét tính chất của một nền kinh tế và xã hội quá độ. Di chuyển lao động là một đòi hỏi tất yếu khách quan, biểu hiện rõ nét nhất sự phát triển không đều giữa các vùng lãnh thổ. Những khác biệt về mức sống, thu nhập, sức ép sinh kế, tiếp cận dịch vụ xã hội theo vùng là nguyên nhân cơ bản tạo nên các dòng di cư hiện nay. Di dân có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng đối với một xã hội đang hiện đại hoá và một nền nông nghiệp đang chuyển đổi, di cư chủ yếu là câu chuyện tìm kiếm công ăn việc làm. Tình trạng đất chật, người đông và điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (ở một số vùng miền Trung), lượng thời gian nông nhàn và tình trạng thiếu việc làm tại chỗ đã đẩy một bộ phận dân cư di chuyển sang các vùng khác để tìm kiếm thu nhập. Luồng di cư có thể là từ nông thôn đến nông thôn hoặc từ nông thôn ra thành thị. Sự phân bố không đồng đều của các luồng vốn đầu tư nước ngoài với sự tập trung cao ở khu vực miền Nam đã tạo nên một luồng di cư rất mạnh mẽ từ các vùng khác nhau vào khu vực Đông ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Xã hội học Vấn đề phát triển xã hội nông thôn Phát triển xã hội nông thôn Việt Nam Công nghiệp hoá Hiện đại hoá Công bằng xã hộiGợi ý tài liệu liên quan:
-
Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phần 1 - Phạm Văn Quyết
123 trang 456 11 0 -
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 257 0 0 -
Bài tiểu luận kinh tế chính trị
25 trang 183 0 0 -
Chất lượng tiếp cận dịch vụ y tế của người nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
10 trang 180 0 0 -
Tiểu luận 'Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội'
20 trang 174 0 0 -
Đồ án tốt nghiệp: Thiết kế tuyến đường qua Thăng Bình và Hiệp Đức - Tỉnh Quảng Nam
0 trang 172 0 0 -
Bài thuyết trình: Công nghiệp hóa trước đổi mới
25 trang 169 0 0 -
Giới thiệu lý thuyết xã hội học Curriculum - Nguyễn Khánh Trung
0 trang 164 0 0 -
Giáo trình Nhập môn xã hội học: Phần 1 - TS. Trần Thị Kim Xuyến
137 trang 150 1 0 -
Đề tài: CÔNG BẰNG XÃ HỘI, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐOÀN KẾT XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
18 trang 148 0 0