Nâng cao chất lượng dạy tiếng việt cho sinh viên Lào từ cơ sở của quan điểm giao tiếp
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 178.55 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Những năm gần đây, nước bạn Lào đã gửi nhiều học sinh, sinh viên (HSSV) sang học tập tại trường Đại học Quảng Bình. Để học tập, sinh hoạt được trên đất Quảng Bình, đòi hỏi HSSV Lào phải nắm kiến thức Tiếng Việt - một công cụ quan trọng trong giao tiếp. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy cho HSSV Lào, chúng tôi nghiên cứu tiếp cận quan điểm giao tiếp để ứng dụng dạy Tiếng Việt theo các định hướng cơ bản sau: Tìm hiểu vấn đề hoạt động giao tiếp và quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt; Xác định được đặc trưng và mục tiêu của đối tượng tham gia học Tiếng Việt; Lựa chọn các phương án tối ưu: xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu bài giảng và cách thức tổ chức dạy Tiếng Việt cho HSSV Lào theo quan điểm giao tiếp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nâng cao chất lượng dạy tiếng việt cho sinh viên Lào từ cơ sở của quan điểm giao tiếp TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO SINH VIÊN LÀO TỪ CƠ SỞ CỦA QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP Nguyễn Thị Nga Trường Đại học Quảng Bình Tóm tắt. Những năm gần đây, nước bạn Lào đã gửi nhiều học sinh, sinh viên (HSSV) sang học tập tại trường Đại học Quảng Bình. Để học tập, sinh hoạt được trên đất Quảng Bình, đòi hỏi HSSV Lào phải nắm kiến thức Tiếng Việt - một công cụ quan trọng trong giao tiếp. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy cho HSSV Lào, chúng tôi nghiên cứu tiếp cận quan điểm giao tiếp để ứng dụng dạy Tiếng Việt theo các định hướng cơ bản sau: Tìm hiểu vấn đề hoạt động giao tiếp và quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt; Xác định được đặc trưng và mục tiêu của đối tượng tham gia học Tiếng Việt; Lựa chọn các phương án tối ưu: xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu bài giảng và cách thức tổ chức dạy Tiếng Việt cho HSSV Lào theo quan điểm giao tiếp. Từ khóa: Nâng cao chất lượng, giảng dạy Tiếng Việt, quan điểm giao tiếp, sinh viên Lào, quan trọng 1. QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Đi liền với sự phát sinh, sự tiến hóa và phát triển của đời sống con người là lao động. Quá trình lao động đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp và nhờ thế ngôn ngữ theo con người mà phát sinh và phát triển. “Hoạt động giao tiếp là sự tiếp xúc giữa con người với con người nhằm trao đổi thông tin, bộc lộ, tình cảm, yêu cầu hành động, đồng thời thể hiện thái độ, cách đánh giá, cách ứng xử của họ với nhau thông qua nội dung giao tiếp” [1]. Đó là một trong những hoạt động có ý thức của con người, đóng vai trò rất quan trọng trong tổ chức và phát triển xã hội. Cùng với lao động, giao tiếp là hoạt động cơ bản nhất của xã hội. Người ta giao tiếp để tác động nhận thức, tác động tư tưởng, tình cảm và tác động hành động nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết hoặc sự cộng tác... giữa các thành viên trong xã hội. Thông qua đó con người có thể tập hợp nhau, tổ chức thành tập thể, thành cộng đồng... Giao tiếp vừa là khả năng vừa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người. Trong giao tiếp người ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau như: tín hiệu vẫy tay, tiếng còi, tiếng kèn, màu sắc, hình khối, nét mặt điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt...nhưng phương tiện thông thường và thuận tiện nhất, đắc dụng, phổ biến và quan trọng nhất là ngôn ngữ. “Trong quá trình hình thành con người và phát triển xã hội, nhân loại đã tích lũy một kho tàng phong phú những công cụ giao tiếp từ đơn giản đến phức tạp, những quy tắc ứng xử, xã giao trong đời sống hàng ngày... Mỗi cá nhân phải nắm được công cụ, quy tắc ấy, nghĩa là phải nắm được quy tắc giao tiếp của cộng đồng” [2]. Trong đời sống của xã hội loài người, ngôn ngữ trở thành “phương tiện giao tiếp quan trọng nhất” (Lênin). Bởi ngôn TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02 ngữ có khả năng to lớn trong việc biểu đạt mọi vấn đề của cuộc sống và cả những tư tưởng, tình cảm trong ngõ ngách sâu lắng tế vi nhất của tâm hồn con người. Ngôn ngữ phục vụ cho việc giao tiếp của xã hội loài người ở mọi nơi, mọi lúc, ở tất cả các lĩnh vực hoạt động, ở mọi lứa tuổi, mọi thế hệ, mọi thời đại và có thể vượt qua không gian thời gian cách xa nhau hàng thế kỷ. Ngôn ngữ còn là công cụ của nhận thức, tư duy. Khi giao tiếp con người cần phải có nội dung để giao tiếp. Muốn có nội dung đó, con người không thể không tư duy để nhận thức, khám phá và phản ánh thực tế khách quan. Ngôn ngữ đóng vai trò lưu giữ, cố định các kết quả của nhận thức, tư duy của con người. Ngôn ngữ trở thành phương tiện vật chất để thể hiện tư duy. Marx từng nhận định Hiện thực trực tiếp của tư tưởng là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hình thức bên ngoài còn tư duy là nội dung bên trong. Trong dạy học muốn phát triển tư duy thì phải phát triển ngôn ngữ và ngược lại. Thực tế dạy học trong nhà trường đã khẳng định được điều đó. Mặt khác, ngôn ngữ không còn được nghiên cứu thuần túy như một hệ thống tín hiệu các đơn vị (âm vị, hình vị, từ, cụm từ, câu, đoạn, văn bản) và quy tắc kết hợp của chúng mà còn được xem xét dưới nhiều bình diện khác nhau của hoạt động giao tiếp như quy tắc thương lượng hội thoại, luân phiên lượt lời, tôn trọng thể diện, khiêm tốn, cộng tác.... Các tính chất của ngôn ngữ như tính khái quát, tính xã hội, tính hệ thống và tính quy ước trong cộng đồng sử dụng ngôn ngữ chung cũng được đề cập, xem xét. Trên tinh thần của cách tiếp cận này, xuất phát từ vai trò, bản chất chức năng của ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu ngày càng nhận ra tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp bằng phương tiện ngôn ngữ. Giao tiếp là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bởi xã hội không phải là con số cộng của các cá thể mà là mối quan hệ và sự tương tác giữa các thành viên trong cộng đồng thông qua lao động và hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu được của con người. Nhu cầu giao lưu, hợp tác hiểu biết lẫn nhau, liên kết với nhau của con ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nâng cao chất lượng dạy tiếng việt cho sinh viên Lào từ cơ sở của quan điểm giao tiếp TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO SINH VIÊN LÀO TỪ CƠ SỞ CỦA QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP Nguyễn Thị Nga Trường Đại học Quảng Bình Tóm tắt. Những năm gần đây, nước bạn Lào đã gửi nhiều học sinh, sinh viên (HSSV) sang học tập tại trường Đại học Quảng Bình. Để học tập, sinh hoạt được trên đất Quảng Bình, đòi hỏi HSSV Lào phải nắm kiến thức Tiếng Việt - một công cụ quan trọng trong giao tiếp. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy cho HSSV Lào, chúng tôi nghiên cứu tiếp cận quan điểm giao tiếp để ứng dụng dạy Tiếng Việt theo các định hướng cơ bản sau: Tìm hiểu vấn đề hoạt động giao tiếp và quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt; Xác định được đặc trưng và mục tiêu của đối tượng tham gia học Tiếng Việt; Lựa chọn các phương án tối ưu: xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu bài giảng và cách thức tổ chức dạy Tiếng Việt cho HSSV Lào theo quan điểm giao tiếp. Từ khóa: Nâng cao chất lượng, giảng dạy Tiếng Việt, quan điểm giao tiếp, sinh viên Lào, quan trọng 1. QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Đi liền với sự phát sinh, sự tiến hóa và phát triển của đời sống con người là lao động. Quá trình lao động đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp và nhờ thế ngôn ngữ theo con người mà phát sinh và phát triển. “Hoạt động giao tiếp là sự tiếp xúc giữa con người với con người nhằm trao đổi thông tin, bộc lộ, tình cảm, yêu cầu hành động, đồng thời thể hiện thái độ, cách đánh giá, cách ứng xử của họ với nhau thông qua nội dung giao tiếp” [1]. Đó là một trong những hoạt động có ý thức của con người, đóng vai trò rất quan trọng trong tổ chức và phát triển xã hội. Cùng với lao động, giao tiếp là hoạt động cơ bản nhất của xã hội. Người ta giao tiếp để tác động nhận thức, tác động tư tưởng, tình cảm và tác động hành động nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết hoặc sự cộng tác... giữa các thành viên trong xã hội. Thông qua đó con người có thể tập hợp nhau, tổ chức thành tập thể, thành cộng đồng... Giao tiếp vừa là khả năng vừa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người. Trong giao tiếp người ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau như: tín hiệu vẫy tay, tiếng còi, tiếng kèn, màu sắc, hình khối, nét mặt điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt...nhưng phương tiện thông thường và thuận tiện nhất, đắc dụng, phổ biến và quan trọng nhất là ngôn ngữ. “Trong quá trình hình thành con người và phát triển xã hội, nhân loại đã tích lũy một kho tàng phong phú những công cụ giao tiếp từ đơn giản đến phức tạp, những quy tắc ứng xử, xã giao trong đời sống hàng ngày... Mỗi cá nhân phải nắm được công cụ, quy tắc ấy, nghĩa là phải nắm được quy tắc giao tiếp của cộng đồng” [2]. Trong đời sống của xã hội loài người, ngôn ngữ trở thành “phương tiện giao tiếp quan trọng nhất” (Lênin). Bởi ngôn TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02 ngữ có khả năng to lớn trong việc biểu đạt mọi vấn đề của cuộc sống và cả những tư tưởng, tình cảm trong ngõ ngách sâu lắng tế vi nhất của tâm hồn con người. Ngôn ngữ phục vụ cho việc giao tiếp của xã hội loài người ở mọi nơi, mọi lúc, ở tất cả các lĩnh vực hoạt động, ở mọi lứa tuổi, mọi thế hệ, mọi thời đại và có thể vượt qua không gian thời gian cách xa nhau hàng thế kỷ. Ngôn ngữ còn là công cụ của nhận thức, tư duy. Khi giao tiếp con người cần phải có nội dung để giao tiếp. Muốn có nội dung đó, con người không thể không tư duy để nhận thức, khám phá và phản ánh thực tế khách quan. Ngôn ngữ đóng vai trò lưu giữ, cố định các kết quả của nhận thức, tư duy của con người. Ngôn ngữ trở thành phương tiện vật chất để thể hiện tư duy. Marx từng nhận định Hiện thực trực tiếp của tư tưởng là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hình thức bên ngoài còn tư duy là nội dung bên trong. Trong dạy học muốn phát triển tư duy thì phải phát triển ngôn ngữ và ngược lại. Thực tế dạy học trong nhà trường đã khẳng định được điều đó. Mặt khác, ngôn ngữ không còn được nghiên cứu thuần túy như một hệ thống tín hiệu các đơn vị (âm vị, hình vị, từ, cụm từ, câu, đoạn, văn bản) và quy tắc kết hợp của chúng mà còn được xem xét dưới nhiều bình diện khác nhau của hoạt động giao tiếp như quy tắc thương lượng hội thoại, luân phiên lượt lời, tôn trọng thể diện, khiêm tốn, cộng tác.... Các tính chất của ngôn ngữ như tính khái quát, tính xã hội, tính hệ thống và tính quy ước trong cộng đồng sử dụng ngôn ngữ chung cũng được đề cập, xem xét. Trên tinh thần của cách tiếp cận này, xuất phát từ vai trò, bản chất chức năng của ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu ngày càng nhận ra tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp bằng phương tiện ngôn ngữ. Giao tiếp là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bởi xã hội không phải là con số cộng của các cá thể mà là mối quan hệ và sự tương tác giữa các thành viên trong cộng đồng thông qua lao động và hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu được của con người. Nhu cầu giao lưu, hợp tác hiểu biết lẫn nhau, liên kết với nhau của con ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nâng cao chất lượng dạy tiếng việt Chất lượng dạy tiếng việt Giảng dạy tiếng Việt cho sinh viên Lào Sinh viên Lào Quan điểm giao tiếpGợi ý tài liệu liên quan:
-
118 trang 11 0 0
-
37 trang 11 0 0
-
Dạy học làm văn nghị luận xã hội lớp 12 theo quan điểm giao tiếp
8 trang 8 0 0 -
8 trang 6 0 0
-
6 trang 6 0 0