Danh mục

Ngân hàng ngại doanh nghiệp Nhà nước!

Số trang: 2      Loại file: doc      Dung lượng: 30.50 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (2 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Một điểm đáng chú ý: Hầu như không có ngân hàng nào đặt ưu tiên tín dụng vào doanh nghiệp Nhà nước - nhóm đối tượng cạnh tranh trọng điểm cách đây mới chỉ cách đây vài năm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ngân hàng ngại doanh nghiệp Nhà nước! Ngân hàng ngại doanh nghiệp Nhà nước! Một điểm đáng chú ý: Hầu như không có ngân hàng nào đặt ưu tiên tín dụng vào doanh nghiệp Nhà nước - nhóm đối tượng cạnh tranh trọng điểm cách đây mới chỉ cách đây vài năm... Dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước của các ngân hàng thương mại ở Hà Nội đang giảm khá rõ rệt cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế. Nếu ở thời điểm cuối năm 2005 dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước (cả Trung ương và địa phương) của hệ thống ngân hàng Hà Nội là 42.170 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 47,6%/tổng dư nợ thì đến nay số dư này còn khoảng 41.500 tỷ đồng và chỉ chiếm tỷ trọng khoảng gần 41%/ tổng dư nợ. Trong báo cáo đánh giá hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm 2006, hầu hết các ngân hàng thương mại đều nêu đối tượng khách hàng được quan tâm hiện nay của họ là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và nhu cầu vay của người dân để mua nhà ở, ô tô, xe máy... Không có ngân hàng nào đặt ưu tiên tín dụng vào doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian này. Đây là một điểm đáng chú ý nếu như chúng ta nhớ rằng chỉ cách đây một vài năm, doanh nghiệp Nhà nước vẫn là đối tượng khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng. Lúc đó dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm đến 70%-80% tổng dư nợ cho vay của các chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước nhưng từ năm 2004 đến nay tình hình đã khác. Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được... cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn... khiến các ngân hàng e ngại khi xem xét cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước. Ngân hàng Quân đội phản ánh: Tài trợ cho các doanh nghiệp nhà nước thường gặp một số khó khăn như: doanh nghiệp nhà nước thường có nguồn vốn tự có thấp nên khả năng tự chủ về tài chính không cao. Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động các đơn vị này thường phải vay vốn ngân hàng có những phương án tỷ lệ vay vốn có thể lên đến 100% nhu cầu thanh toán. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước không có tài sản bảo đảm nên việc cho vay thường thực hiện theo hình thức tín chấp. Việc cho vay tín chấp mang nhiều rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng. Một số trường hợp khách hàng có tài sản là bất động sản có giá trị khá lớn nhưng giấy tờ chứng minh sở hữu thường không đầy đủ. Ngân hàng muốn lấy tài sản này làm đảm bảo cho khoản vay nhưng lại không thực hiện được việc ký hợp đồng thế chấp và không đăng ký được giao dịch bảo đảm. Phần nhiều các đơn vị xây dựng hiện nay là doanh nghiệp nhà nước và chịu sự quản lý trực tiếp của các tổng công ty. Khi vay vốn tại các ngân hàng, các tổng công ty thường đứng ra uỷ quyền và bảo lãnh cho đơn vị thành viên. Tuy nhiên, khi xảy ra việc mất khả năng thanh toán tại các đơn vị thành viên ngân hàng yêu cầu các tổng công ty thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nhưng việc hợp tác của các đơn vị không mấy hiệu quả. Bên cạnh đó quá trình sáp nhập và chia tách doanh nghiệp hình thành pháp nhân mới khiến ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình giải quyết dư nợ còn tồn đọng của pháp nhân cũ. Hội nghị phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp của Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC) vừa tổ chức ở Tp.HCM, Đà Nẵng và Cần Thơ trung tuần tháng 4 vừa qua đã công bố một số liệu khá ảm đạm về sức khoẻ của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Kết quả xếp loại 5.199 doanh nghiệp có báo cáo tài chính năm 2004 theo loại hình doanh nghiệp thì số doanh nghiệp nhà nước được xếp loại khá trở lên (từ AAA đến BBB) lần lượt chiếm 17,1%; 18% qua 2 năm 2003, 2004 (số liệu tương ứng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 44,1%; 45,4%. Của công ty TNHH và công ty cổ phần là 31,2%;27,6%). Số lượng doanh nghiệp Nhà nước xếp loại trung bình trở xuống (từ BB đến C) chiếm 55,9% vào năm 2003 và 54,6% năm 2004. Ngành xây dựng có số lượng doanh nghiệp xếp loại khá (từ AAA đến BBB) trở lên chiếm tỷ lệ thấp nhất trong các ngành, lần lượt chiếm 9,1%; 8% qua 2 năm 2003, 2004. Số lượng doanh nghiệp xếp loại trung bình trở xuống chiếm 90,9% vào năm 2003 và 92% năm 2004. Theo CIC: Doanh nghiệp Nhà nước là loại hình doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả nhất. Qua phân tích cho thấy doanh nghiệp nhà nước vay nợ nhiều, khả năng tự chủ tài chính thấp, khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao. Tất cả những điều đó đã dẫn đến rủi ro đối với nguồn vốn tín dụng cao và kết quả là nhiều doanh nghiệp nhà nước đã bị mất niềm tin đối với ngân hàng và các ngân hàng tuy không ngoảnh mặt lại với doanh nghiệp nhà nước nhưng họ rất thận trọng khi tài trợ mới hoặc tiếp tục tài trợ cho các doanh nghiệp nhà nước. Ngân hàng Cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) cho biết: Habubank thận trọng việc phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp nhà nước do các khoản vay thường không ...

Tài liệu được xem nhiều: