Danh mục

Ngất - điều trị làm sao?

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 128.99 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ngất là tình trạng mất ý thức thoáng qua và tự hết sau một thời gian ngắn. Ngất thường khởi phát nhanh, tiếp theo là phục hồi hoàn toàn và hay lặp lại. Đây là một triệu chứng rất hay gặp và nguyên nhân của nó rất đa dạng. Ngất là tình trạng mất ý thức thoáng qua và tự hết sau một thời gian ngắn. Ngất thường khởi phát nhanh, tiếp theo là phục hồi hoàn toàn và hay lặp lại. Đây là một triệu chứng rất hay gặp và nguyên nhân của nó rất đa dạng. Việc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ngất - điều trị làm sao? Ngất - điều trị làm sao? Ngất là tình trạng mất ý thức thoáng qua và tự hết sau một thờigian ngắn. Ngất thường khởi phát nhanh, tiếp theo là phục hồi hoàntoàn và hay lặp lại. Đây là một triệu chứng rất hay gặp và nguyên nhâncủa nó rất đa dạng. Ngất là tình trạng mất ý thức thoáng qua và tự hết sau một thời gianngắn. Ngất thường khởi phát nhanh, tiếp theo là phục hồi hoàn toàn và haylặp lại. Đây là một triệu chứng rất hay gặp và nguyên nhân của nó rất đadạng. Việc hiểu biết về nguyên nhân, cơ chế và cách xử trí là hết sức quantrọng và cần thiết đối với tất cả mọi người vì nếu không được xử trí đúng, thìtừ triệu chứng mất ý thức thoá ng qua, rất có thể sẽ dẫn đến đe dọa tínhmạng. Cơ chế chính của ngất là thiếu máu não tạm thời do rất nhiều nguyênnhân khác nhau. Sau khi não hết thiếu máu, các triệu chứng sẽ mất hẳn,người bệnh sẽ hồi phục hoàn toàn. Người khỏe mạnh thường có cung lượngmáu não từ 50 - 60 ml/100g tổ chức/phút, tương đương với 12 - 15% cunglượng tim khi nghỉ. Cung lượng này đủ đảm bảo cho lượng O2 tối thiểu đểduy trì ý thức là khoảng 3,0 - 3,5ml O2/100g tổ chức/phút. Tuy nhiên, ởngười lớn tuổi hoặc ở những bệnh nhân bị một số bệnh lý, khả năng đảm bảoO2 cho não bị hạn chế nhiều. Cung lượng máu não ngừng đột ngột từ 6 - 8giây là đủ để gây ra tình trạng mất ý thức hoàn toàn. Người ta cũng thấy chỉcần giảm 20% lượng O2 cung cấp cho não cũng đủ gây ra mất ý thức. Điều trị ngất trước hết phụ thuộc vào việc tìm nguyên nhân và điều trịchủ yếu là điều trị bệnh lý là nguyên nhân dẫn đến ngất. Mục đích chính củaviệc điều trị ngất là dự phòng sự tái phát của ngất và làm giảm nguy cơ tửvong. Dưới đây, xin đưa ra phương pháp điều trị một số nguyên nhân gâyngất. - Ngất do thần kinh phế vị: Bên cạnh các biện pháp phòng tránh cácyếu tố kích thích gây ngất, có thể áp dụng các biện pháp luyện tập cho bệnhnhân như luyện tập thể lực gắng sức để kích thích thần kinh giao cảm... Khicác biện pháp trên không có hiệu quả thì có thể điều trị thuốc cho bệnh nhân.Người ta đã sử dụng một số thuốc như các chất ức chế thụ thể bêta (nhưbetaloc, atenolol, bisoprolol...), theophyllin, ephedrin.... Ngoài ra, nhữngbệnh nhân bị ngất nặng do căn nguyên thần kinh phế vị mà không dự phòngđược bằng thuốc cũng có chỉ định đặt máy tạo nhịp tim vĩnh viễn nhằm dựphòng các cơn nhịp chậm do cường phó giao cảm. - Ngất trong hội chứng nút xoang bệnh lý: Các biểu hiện lâm sàng củahội chứng nút xoang bệnh lý thường thấy là nhịp chậm xoang, ngừng xoang,nghẽn xoang - nhĩ và hội chứng nhịp nhanh - nhịp chậm... Cấy máy tạo nhịpvĩnh viễn là chỉ định điều trị chính cho những bệnh nhân yếu nút xoang cóngất. Khi chưa cấy được máy tạo nhịp, có thể sử dụng một số thuốc làm tăngnhịp tim như isuprel, atropin, theophyllin... Những bệnh nhân bị hội chứngnút xoang bệnh lý có kèm theo loạn nhịp như ngoại tâm thu, cơn nhịp nhanhhoặc có kèm theo một số bệnh tim thực thể cần phải dùng các thuốc làmnhịp tim chậm hơn như các glycoside trợ tim, các thuốc ức chế bêta, cácthuốc ức chế calci và các thuốc chống loạn nhịp như sotalol, amiodarone thìviệc cấy máy tạo nhịp lại càng cần thiết. - Ngất trong nghẽn dẫn truyền nhĩ - thất: Ngất thường xảy ra khi cónghẽn nhĩ - thất mức độ cao như nghẽn nhĩ - thất độ 2, nghẽn nhĩ - thất hoàntoàn (độ 3). Một số loại thuốc như atropine, isoprenaline có thể sử dụngđược trong trường hợp có nghẽn nhĩ - thất thoáng qua hoặc trong trường hợpnghẽn nhĩ - thất khi có nhồi máu cơ tim cấp thành sau dưới. Trong đại đa sốcác trường hợp, chỉ định cấy máy tạo nhịp là cần thiết để đảm bảo ngăn ngừacơn ngất và tử vong cho bệnh nhân. Chỉ định cấy máy tạo nhịp còn áp dụngcho những bệnh nhân ngất có nghẽn nhiều nhánh của bó His hoặc nghẽn nhĩ- thất từng cơn. - Ngất do cơn nhịp nhanh trên thất hoặc cơn nhịp nhanh thất: Cáccơn nhịp nhanh trên thất thường ít gây ngất, ngược lại nhịp nhanh thấtthường có kết hợp với bệnh lý thực thể nặng của tim và thường gây ngất. Đối với cơn nhịp nhanh trên thất, các thuốc chống loạn nhịp nhưsotalol, amiodarone, ức chế bêta có tác dụng điều trị cắt cơn và điều trị duytrì dự phòng tái phát. Ngày nay, với những tiến bộ kỹ thuật, cắt đốt bằng năng lượng sóngradio (RF) các đường dẫn truyền bệnh lý các đường dẫn truyền phụ, cácvòng vào lại là phương pháp điều trị có hiệu quả và là sự lựa chọn hàng đầu. Trong trường hợp ngất do nhịp nhanh thất, điều trị bằng thuốc tỏ ra cóhiệu quả và dung nạp tốt ở những bệnh nhân không có tổn thương thực thể ởtim hoặc có bệnh tim nhưng chức năng tim mới giảm nhẹ. Các thuốc thườngđược sử dụng có hiệu quả là cordarone và thuốc ức chế bêta. Đối với nhữngbệnh nhân mà điều trị bằng thuốc không có tác dụng hoặc có nguy c ơ rungthất cao như chức năng thất trái giảm nặng thì cấy máy phá rung là chỉ địnhhàng đầu. C ...

Tài liệu được xem nhiều: