Danh mục

Nghề đánh bắt và chế biến hải sản ở Quang Lang

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 437.94 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghề đánh bắt và chế biến hải sản ở Quang Lang là một phần quan trọng trong đời sống kinh tế và văn hóa của người dân nơi đây. Với vị trí địa lý thuận lợi ven biển, Quang Lang không chỉ sở hữu nguồn tài nguyên hải sản phong phú mà còn là nơi lưu giữ nhiều bí quyết chế biến độc đáo, phản ánh nét văn hóa ẩm thực đặc sắc của vùng biển. Nghề này không chỉ mang lại thu nhập cho ngư dân mà còn gắn kết cộng đồng qua những hoạt động sản xuất, tiêu thụ hải sản. Bài viết này sẽ khám phá những đặc điểm nổi bật của nghề đánh bắt và chế biến hải sản ở Quang Lang, từ đó làm nổi bật vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa địa phương.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghề đánh bắt và chế biến hải sản ở Quang Lang36 PHAN THỊ HOA LÝ Quang Lang là một làng biển thuần chất, không hê dính dáng đến bất cứ mộtNGHỀ ĐÁNH BẮT nghê sản xuất nông nghiệp nào. Người dân ở đây sông bằng nghê truyền thống là đánhVÀ CHẾ BIẾN cá, chê biến thuỷ sản, thu nhập bình quân đầu người đạt 350.000đ/lngười/ltháng,HẢI SẢN thuộc mức cao ở Thái Bình. Kinh tê Quang Lang phát triển mạnh mẽ.Ỏ QUANG LANG Lao động ở đây có sự phân công khá rõ: đàn ông thì đi biển; phụ nữ, người già và trẻ em thì ở nhà nội trơ, chê biến, tiêu thụPHAN THỊ HOA LÝn hải sản. Trước kia, Quang Lang cũng có làm muối nhưng hiện nay diện tích đồngI. VÀI NÉT VỀ QUANG LANG muôi và đầm hồ nuôi trồng thuỷ sản không Quang Lang(1) là một làng biển, nay đáng kể. Nếu như Quang Lang chủ yếu làthuộc xã Thuỵ Hải, huyện Thái Thuỵ, tỉnh đảnh bắt và chê biến hải sản thì Tam ĐồngThái Bình. Xã Thuỵ Hải chạy dài 3km dọc lại chủ yếu là làm muối và nuôi trồng thuỷtheo bờ biển Đông, cách thị xã Thái Bình sản.35km, dọc theo quốc lộ 217. Tính cách người Quang Lang là “tính Trong lịch sử hình thành làng xã Thái cách biển”: năng động, mạnh mẽ, phóngBình, Quang Lang được xem là một làng khoáng và thẳng thắn, hồn hậu, đặc biệt làViệt cổ, hình thành tương đối sớm (ít nhất tình đoàn kêt, đồng cam cộng khố (có lẽlà từ thế kỉ IX, sau CN)(2>. được hình thành từ việc đi biển theo đoàn Buổi đầu làng có tên là làng Góp, sau và cùng nhau chông chọi vối những tháchthuộc trang Quang Lang (thời Trần). Thời thức của biển cả chăng?).Lê là một trong 62 làng xã của huyện Thuỵ So với các làng quê khác ở Thái Bình,Anh, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam, thời Quang Lang có sô dân khá đông (3262Nguyễn thuộc tổng Hổ Đội với ba thôn: nhân khẩu của 861 hộ gia đình - sô liệuthôn Đông, thôn Đoài và thôn Tam Đồng vê điều tra năm 2001). Có vị trí giáp biển,sau có thêm một thôn nữa là Tân Sơn do giáp thị, thuận tiện cho việc giao lưu kinhdân đánh cá ở Đồ Sơn, Hải Phòng di cư về tế, văn hoá, lại sông bằng việc bán các sảnlập thành. Trong suôi thời kì kháng chiến phẩm ngư nghiệp, diêm nghiệp nên nhịpchông Pháp, Mĩ, Thuỵ Hải gồm bảy thôn điệu đô thị hoá ở đây khá nhanh. Lànghợp thành trong đó có Quang Lang. Năm giống n h ư m ột th ị trấ n , h a i bên đường đi 1969, Thuỵ Anh sáp nhập vơi Thái Ninh, nhà cửa san sát và rấ t nhiều hàng quán.thành huyện mới là Thái Thuỵ, xã Thuỵ Từ quán nước, quán ăn, quán bán hàngHải chỉ còn hai thôn: Quang Lang và Tam khô, các nhu yếu phẩm cho sinh hoạt hàngĐồng. Sau đó thôn Tân Sơn được cắt về thị ngày đến các hiệu may mặc, hiệu sửa chữatrấn Diêm Điền và từ năm 2002, thôn đồ điện,... đều có cả. Người dân không ănQuang Lang được chia thành Quang Lang sáng ở nhà. Đồ ăn sáng khá phong phú vớiDông và Quang Lang Đoài.( ) * đủ các loại ngô, khoai luộc, các loại bánh, xôi đến mì, phở, bún... Thậm chí, bữa ăn(*) Viện Nghiên cứu văn hóa chính cũng có nhiều người không nấu ănNghiên cứu trao đôi 37mà đi ăn ở quán cơm bụi hay chỉ nấu cơm một người đánh cá trong làng. Một lần, đicòn thức ăn sẵn thì mua từ quán về. Do qua vùng đất này, thấy phong cảnh hữugiáp biển nên nguồn nước mạch ở đây bị tình ông bèn dừng thuyền. Đêm đó, trongnhiễm mặn. Mấy năm lại đây, Quang Lang giâc mơ, ông thây có một vị thần linh đếnđã có nước máy của nhà máy nước cung cấp mách rằng nếu ông đưa gia đình đến đâycho sinh hoạt hằng ngày. dựng trại, lập làng thì sẽ được phù hộ, dòng Tôn giáo, tín ngưỡng ở Quang Lang dõi đề đa, phúc lộc. Tỉnh dậy, ngắm bãi đấtkhá thuần nhất. Người dân thò cúng tổ tiên thấy có thế lưỡng long triều nguyệt ôngvà thờ các vị tổ nghề gắn với nghề nghiệp bèn làm theo lời thần, vê quê đón vợ consinh tồn của họ. Họ có một cuộc sống tinh cùng một số người thân, xóm làng tởi đây sinh sông. Ông dạy dân đan lưối, đóngthần sôi động với nhiều lễ hội phong phú, thuyên và đánh cá. Họ lấy bột của cây bánghấp dẫn. Dường như họ là những người (có tên Hán Việt là quang lang, một loạithích hội hè, đình đám và hát ca, đặc biệt cây thuộc họ dừa nước, trong thân có bộtlà hát đò đưa. Hằng năm Quang Lang có 4 như bột đao) làm lương thực. Dần dần, dânkì hội truyền thông lớn được tố chức long sinh sôi, nảy nở, làng xóm được hình thành.trọng. Đó là hội Rước nước cầu vạng (rước Cái tên trang Quang Lang cũng ra đời từnước cầu tròi yên bể lặng) vào ngày 25/1 đó. Ngày nay, ở từ đường của dòng họâm lịch, hội Vật trâu ba đình vào ngày 12/2 Nguyễn Hữu vẫn còn đôi câu đôi ca ngợiâm lịch với tục giết trâu tê thành hoàng, công lao của vị tổ nghê như sau:hội Ồng Đùng bà Đà (từ 12 đên 14/4 ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: