Danh mục

Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm môi trường nước và những ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ trồng đay

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 284.01 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tại những vùng trồng đay, trong thời kỳ thu hoạch và ngâm đay các thủy vực bị ô nhiễm đã gây ảnh hưởng đến môi trường chung và tác động không nhỏ tới sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là những người phụ nữ thường xuyên phải ngâm mình dưới nước ngâm đay. Hiện nay, một số xã ven đê sông Hồng thuộc huyện Lý Nhân - Hà Nam là vùng trồng đay nhiều nhất ở nước ta, cung cấp sản phẩm đay tơ cho nhà máy đay Thái Bình và Nam Định. Xã Phú Phúc (Lý Nhân, Hà Nam)...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm môi trường nước và những ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ trồng đay Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm môi trường nước và những ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ trồng đay Tại những vùng trồng đay, trong thời kỳ thu hoạch và ngâm đay các thủy vực bị ô nhiễm đã gây ảnh hưởng đến môi trường chung và tác động không nhỏ tới sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là những người phụ nữ thường xuyên phải ngâm mình dưới nước ngâm đay. Hiện nay, một số xã ven đê sông Hồng thuộc huyện Lý Nhân - Hà Nam là vùng trồng đay nhiều nhất ở nước ta, cung cấp sản phẩm đay tơ cho nhà máy đay Thái Bình và Nam Định. Xã Phú Phúc (Lý Nhân, Hà Nam) được chọn tiêu biểu cho vùng trồng và ngâm đay. Nghiên cứu cho thấy: - Nước ao ngâm đay ô nhiễm nặng do lượng BOD, COD, H2S và Coliform cao hơn tiêu chuẩn quy định. - Bệnh ngoài da và bệnh phụ khoa ở phụ nữ xã trồng đay Phú Phúc, thể hiện khá rõ, cụ thể: bệnh phụ khoa, bệnh ngoài da trung bình chiếm 73,87% (từ 30,12 - 89,5%) và 37,57% (từ 4,82 - 14,5%) trong tổng số phụ nữ đến khám bệnh. 2 bệnh trên gặp nhiều ở lớp tuổi 26 - 40 và 41 - 55, ít gặp ở lớp tuổi 18 - 25 và trên 55. - Tỷ lệ mắc 2 loại bệnh trên tại xã Phú Phúc cũng khác nhau ở giữa vụ và ngoài vụ sản xuất, cụ thể: Trong vụ sản xuất: bệnh phụ khoa phát hiện có 73,87%, bệnh ngoài da chiếm 51% trong tổng số phụ nữ đến khám bệnh. Ngoài vụ sản xuất: bệnh phụ khoa chiếm 51%, bệnh ngoài da chiếm 17,2% trong tổng số phụ nữ đến khám bệnh. Mở đầu Ở nước ta hiện nay, trên 70% lao động trong nông nghiệp là phụ nữ và theo dự đoán tỷ lệ này sẽ còn tăng trong những năm tới. Ngoài chức năng lao động, phụ nữ còn có vai trò quan trọng hơn là sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái và chăm sóc gia đình. Các chức năng này đòi hỏi họ phải thường xuyên tiếp xúc với nguồn nước thông qua các công việc đồng áng, nội trợ và họ cũng là đối tượng có nhu cầu lớn nhất về nước sinh hoạt. Do đó một khi môi trường nước bị ô nhiễm thì phụ nữ và trẻ em là hai đối tượng chịu tác động nhiều nhất. Vì vậy, muốn phát triển nông thôn bền vững thì không thể không quan tâm tới sức khỏe người phụ nữ. Tại những vùng trồng đay, trong thời kỳ thu hoạch và ngâm đay, các thủy vực bị ô nhiễm đã gây ảnh hưởng đến môi trường chung và tác động không nhỏ tới sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là những người phụ nữ thường xuyên phải ngâm mình dưới nước ngâm đay. Hiện nay, một số xã ven đê sông Hồng thuộc huyện Lý Nhân - Hà Nam là vùng trồng đay nhiều nhất ở nước ta, cung cấp sản phẩm đay tơ cho nhà máy đay Thái Bình và Nam Định. Xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam được chọn tiêu biểu cho vùng trồng và ngâm đay. Vụ đay kéo dài từ tháng 1 đến tháng 7, ở bãi sông thu hoạch vào đầu tháng 8. Ở các vùng đay đồng bằng Bắc bộ, thường thu hoạch từ giữa tháng 7 đến đầu tháng 8, một số nơi thu hoạch sớm để làm đất cấy lúa mùa. Sau khi nhổ đay người ta tuốt lá để ủ phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Có 2 cách sơ chế đay: Cạo vỏ, phơi nắng để làm đay bẹ và ngâm vỏ để sản xuất sợi đay ngâm (đay tơ). Cách thứ nhất thường ít gây ảnh hưởng đến môi trường, nhưng cách thứ 2 do phải ngâm đay dưới nước nên đã gây ô nhiễm cảc thủy vực nước, ảnh hưởng đến môi trường chung và tác động không nhỏ đến sức khỏe cộng đồng dân cư địa phương. Khi áp dụng phương pháp ngâm đay tơ sẽ tiến hành tước vỏ từ thân đay, phân loại và bó thành từng bó, ngâm xuống ao hồ. Sau 8 - 10 ngày vớt lên giũ sạch nhớt, phơi khô. Thời gian lao động kéo dài (18 20 giờ/ngày) liên tục trong 30 - 45 ngày, người dân (phổ biến là phụ nữ) phải ngâm mình trong nước để ngâm và giũ đay. 1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Địa điểm nghiên cứu: Xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam Xã Phú Phúc là một xã ven đê sông Hồng thuộc huyện Lý Nhân, với chiều dài 6 km dọc theo đê sông Hồng, cách TP Hà Nam 30 km. Phía Bắc giáp xã Nhân Thịnh, phía Tây giáp xã Nhân Mỹ, phía Nam giáp xã Tiến Thắng và Hòa Hậu, phía Đông giáp sông Hồng và xã Độc Lập (Hưng Hà, Thái Bình). Dân số toàn xã: 10.327 người, trong đó 51% là phụ nữ (5.267 người). Nghề nghiệp chính của nhân dân trong xã là sản xuất nông nghiệp (trồng lúa, trồng đay, trồng màu...). Xã Tiến Thắng, huyện Lý Nhân, Hà Nam Xã Tiến Thắng giáp với xã Phú Phúc được chọn làm xã đối chứng, không trồng và ngâm đay. Xã Tiến Thắng nằm ở phía Nam cuối huyện Lý Nhân, phía trong đê sông Hồng. Phía Nam giáp huyện Mỹ Lộc (Nam Định). Phía Tây giáp sông Châu Giang. Phía Bắc giáp xã Phú Phúc, Nhân Mỹ. Phía Đông giáp đê sông Hồng (phía trong đê). Mẫu nước: Mẫu nước ao ngâm đay - Thời gian lấy mẫu nước: Các mẫu nước được lấy làm 3 đợt: Đợt 1: ngày 9/5/2008 (thời kỳ chưa ngâm đay). Đợt 2: ngày 21/7/2008 (thời kỳ đang ngâm đay). Đợt 3: ngày 22/9/2008 ( thời kỳ sau ngâm đay). Tiêu chuẩn so sánh chất lượng nước ao ngâm đay: QCVN 08/2008, loại B1(Dùng cho mục đích tưới tiêu thủy lợi hoặc các mục đích sử dụng khác có yêu cầu chất lượng nước tương tự hoặc các mục đích sử dụng như loại B - Giao thông thủy và các mục đích khác với yêu cầu nước c ...

Tài liệu được xem nhiều: