Nghiên cứu phân bố nghêu giống (Meretrix lyrata) ven biển Thạnh Phong – Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 602.64 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu được thực hiện tại vùng rừng ngập mặn Thạnh Phong, Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre qua 5 đợt khảo sát từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2014 với 330 mẫu nghêu giống, 60 mẫu thức ăn trong ruột nghêu, 60 mẫu đất nền đáy đã được thu và đo một số chỉ tiêu chất lượng nước tại 33 điểm bao gồm: 13 điểm vùng ven biển (lớp biển), 11 điểm vùng kênh rạch sát biển (lớp giữa) và 9 điểm vùng rừng ngập mặn (lớp rừng).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu phân bố nghêu giống (Meretrix lyrata) ven biển Thạnh Phong – Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 NGHIÊN CỨU PHÂN BỐ NGHÊU GIỐNG (Meretrix lyrata) VEN BIỂN THẠNH PHONG – THẠNH HẢI, HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE Nguyễn Minh Niên1*, Đoàn Văn Tiến1, Nguyễn Văn Phụng1, Nguyễn Thị Phương Thanh2 TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện tại vùng rừng ngập mặn Thạnh Phong, Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre qua 5 đợt khảo sát từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2014 với 330 mẫu nghêu giống, 60 mẫu thức ăn trong ruột nghêu, 60 mẫu đất nền đáy đã được thu và đo một số chỉ tiêu chất lượng nước tại 33 điểm bao gồm: 13 điểm vùng ven biển (lớp biển), 11 điểm vùng kênh rạch sát biển (lớp giữa) và 9 điểm vùng rừng ngập mặn (lớp rừng). Mẫu nước được đo tại hiện trường các chỉ tiêu nhiệt độ, độ muối, độ trong và pH. Mẫu đất được thu bằng khoan đất và gàu đáy chuyên dùng. Mẫu ấu trùng nghêu phù du và nghêu giống được thu bằng lưới có kích thước mắt lưới tương ứng 30μm và 1mm và được cố định bằng cồn. Mẫu phân tích thức ăn trong ruột nghêu và độ béo được tiến hành bằng cách đo chiều cao, khối lượng nghêu không có vỏ, cố định ruột bằng dung dịch formol. Mẫu được phân tích tại phòng thí nghiệm Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố chất lượng nước có giá trị nằm trong giới hạn bình thường cho thủy sinh vật và nghêu phát triển. Ở vùng ven biển, nhóm đất cát chiếm 94,28%, có tính chất rời rạc, thấm nước dễ và cũng khó giữ nước. Ở vùng kênh rạch sát biển, có lượng bùn cát trung bình (41,20% thịt và 2,77% sét). Ở vùng trong rừng ngập mặn, nền đáy chủ yếu là bùn có hàm lượng thịt và sét cao. Nghêu giống chỉ phân bố ở vùng ven biển Thạnh Phong, Thạnh Hải nơi có nền đáy là cát bùn, thành phần cát trung bình chiếm 94,28 ± 2,14% và nghiên cứu không xác định nghêu giống phân bố ở vùng kênh rạch và trong rừng ngập mặn. Độ béo của nghêu vào tháng 6/2014 cao hơn tháng 7/2014. Thành phần thức ăn trong ruột nghêu đa số là mùn bã hữu cơ, chiếm từ 73,68%-91,67% và tảo từ 8,33%-26,14% số lượng thức ăn trong ruột nghêu. Từ khóa: Nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata), phân bố nghêu, ấu trùng nghêu, nghêu giống, rừng ngập mặn. I. MỞ ĐẦU 80-90%), độ mặn 10-31‰, nhiệt độ nước từ 25- Nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata) là một 32oC, có thức ăn phong phú, ít sóng gió, dòngtrong những loài nhuyễn thể có giá trị kinh tế ở chảy chậm. Các nghiên cứu về sinh học sinh sản,Việt Nam, đặc biệt là vùng ven biển Đồng bằng bảo vệ nguồn lợi và phát triển nghề nuôi cũng đãsông Cửu Long nên đã có nhiều nghiên cứu về được quan tâm thực hiện (Thiet, C.C., và Martin,loài này. Nguyễn Hữu Phụng (1996b) cho rằng S.K., 2008; Aucoin, F., et al., 2004; Nguyễnloài Meretrix lyrata chỉ gặp ở Nam bộ tại các Thanh Tùng và ctv., 2004; Nguyễn Đinh Hùngvùng ven biển từ TP. Hồ Chí Minh đến Cà Mau, và ctv., 2002; Nguyễn Đinh Hùng, 2000)chưa phát hiện sự phân bố tự nhiên của chúng ở II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁPven biển Bắc bộ và Trung bộ. Theo Nguyễn TácAn và ctv., (1994), nghêu phân bố vùng hạ triều, 2. 1. Vị trí và thời gian thu mẫuthời gian phơi bãi từ 2-8 giờ/ngày, pH nước từ Vị trí thu mẫu gồm 33 điểm bố trí trên 36,6-8. Một nghiên cứu của Trương Quốc Phú khu vực là vùng ven biển (13 điểm - ký hiệu từ(1999) cho thấy vùng phân bố tự nhiên ở gần 1-13, gọi là lớp biển), vùng giữa (11 điểm - kýcửa sông nơi có chất đáy là cát bùn (cát chiếm hiệu từ 14-24, gọi là lớp giữa), vùng trong rừng1. Phòng Sinh thái Nghề cá và Tài nguyên Thủy sinh vật, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2.* Email: minhnien11@yahoo.com2. Trường Trung học Thủy sảnTẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 3 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2ngập mặn (9 điểm - ký hiệu từ 25-33, gọi là lớp xuất hiện và phương pháp đếm điểm. Phươngrừng) và được định vị bằng GPS thuộc địa bàn pháp đếm điểm dựa vào diện tích mảnh thức2 xã Thạnh Phong và Thạnh Hải, huyện Thạnh ăn có kích thước 15 μ (đo bằng trắc thị kính)Phú, tỉnh Bến Tre. Thời gian thu mẫu từ tháng 4 làm chuẩn và cho một điểm. Tính điểm thức ănđến tháng 8 năm 2014 (Hình 1). khác tương ứng với kích thước ấy. Đếm toàn bộ thức ăn có trong thị trườ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu phân bố nghêu giống (Meretrix lyrata) ven biển Thạnh Phong – Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 NGHIÊN CỨU PHÂN BỐ NGHÊU GIỐNG (Meretrix lyrata) VEN BIỂN THẠNH PHONG – THẠNH HẢI, HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE Nguyễn Minh Niên1*, Đoàn Văn Tiến1, Nguyễn Văn Phụng1, Nguyễn Thị Phương Thanh2 TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện tại vùng rừng ngập mặn Thạnh Phong, Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre qua 5 đợt khảo sát từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2014 với 330 mẫu nghêu giống, 60 mẫu thức ăn trong ruột nghêu, 60 mẫu đất nền đáy đã được thu và đo một số chỉ tiêu chất lượng nước tại 33 điểm bao gồm: 13 điểm vùng ven biển (lớp biển), 11 điểm vùng kênh rạch sát biển (lớp giữa) và 9 điểm vùng rừng ngập mặn (lớp rừng). Mẫu nước được đo tại hiện trường các chỉ tiêu nhiệt độ, độ muối, độ trong và pH. Mẫu đất được thu bằng khoan đất và gàu đáy chuyên dùng. Mẫu ấu trùng nghêu phù du và nghêu giống được thu bằng lưới có kích thước mắt lưới tương ứng 30μm và 1mm và được cố định bằng cồn. Mẫu phân tích thức ăn trong ruột nghêu và độ béo được tiến hành bằng cách đo chiều cao, khối lượng nghêu không có vỏ, cố định ruột bằng dung dịch formol. Mẫu được phân tích tại phòng thí nghiệm Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố chất lượng nước có giá trị nằm trong giới hạn bình thường cho thủy sinh vật và nghêu phát triển. Ở vùng ven biển, nhóm đất cát chiếm 94,28%, có tính chất rời rạc, thấm nước dễ và cũng khó giữ nước. Ở vùng kênh rạch sát biển, có lượng bùn cát trung bình (41,20% thịt và 2,77% sét). Ở vùng trong rừng ngập mặn, nền đáy chủ yếu là bùn có hàm lượng thịt và sét cao. Nghêu giống chỉ phân bố ở vùng ven biển Thạnh Phong, Thạnh Hải nơi có nền đáy là cát bùn, thành phần cát trung bình chiếm 94,28 ± 2,14% và nghiên cứu không xác định nghêu giống phân bố ở vùng kênh rạch và trong rừng ngập mặn. Độ béo của nghêu vào tháng 6/2014 cao hơn tháng 7/2014. Thành phần thức ăn trong ruột nghêu đa số là mùn bã hữu cơ, chiếm từ 73,68%-91,67% và tảo từ 8,33%-26,14% số lượng thức ăn trong ruột nghêu. Từ khóa: Nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata), phân bố nghêu, ấu trùng nghêu, nghêu giống, rừng ngập mặn. I. MỞ ĐẦU 80-90%), độ mặn 10-31‰, nhiệt độ nước từ 25- Nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata) là một 32oC, có thức ăn phong phú, ít sóng gió, dòngtrong những loài nhuyễn thể có giá trị kinh tế ở chảy chậm. Các nghiên cứu về sinh học sinh sản,Việt Nam, đặc biệt là vùng ven biển Đồng bằng bảo vệ nguồn lợi và phát triển nghề nuôi cũng đãsông Cửu Long nên đã có nhiều nghiên cứu về được quan tâm thực hiện (Thiet, C.C., và Martin,loài này. Nguyễn Hữu Phụng (1996b) cho rằng S.K., 2008; Aucoin, F., et al., 2004; Nguyễnloài Meretrix lyrata chỉ gặp ở Nam bộ tại các Thanh Tùng và ctv., 2004; Nguyễn Đinh Hùngvùng ven biển từ TP. Hồ Chí Minh đến Cà Mau, và ctv., 2002; Nguyễn Đinh Hùng, 2000)chưa phát hiện sự phân bố tự nhiên của chúng ở II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁPven biển Bắc bộ và Trung bộ. Theo Nguyễn TácAn và ctv., (1994), nghêu phân bố vùng hạ triều, 2. 1. Vị trí và thời gian thu mẫuthời gian phơi bãi từ 2-8 giờ/ngày, pH nước từ Vị trí thu mẫu gồm 33 điểm bố trí trên 36,6-8. Một nghiên cứu của Trương Quốc Phú khu vực là vùng ven biển (13 điểm - ký hiệu từ(1999) cho thấy vùng phân bố tự nhiên ở gần 1-13, gọi là lớp biển), vùng giữa (11 điểm - kýcửa sông nơi có chất đáy là cát bùn (cát chiếm hiệu từ 14-24, gọi là lớp giữa), vùng trong rừng1. Phòng Sinh thái Nghề cá và Tài nguyên Thủy sinh vật, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2.* Email: minhnien11@yahoo.com2. Trường Trung học Thủy sảnTẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 3 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2ngập mặn (9 điểm - ký hiệu từ 25-33, gọi là lớp xuất hiện và phương pháp đếm điểm. Phươngrừng) và được định vị bằng GPS thuộc địa bàn pháp đếm điểm dựa vào diện tích mảnh thức2 xã Thạnh Phong và Thạnh Hải, huyện Thạnh ăn có kích thước 15 μ (đo bằng trắc thị kính)Phú, tỉnh Bến Tre. Thời gian thu mẫu từ tháng 4 làm chuẩn và cho một điểm. Tính điểm thức ănđến tháng 8 năm 2014 (Hình 1). khác tương ứng với kích thước ấy. Đếm toàn bộ thức ăn có trong thị trườ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nuôi trồng thủy sản Bài viết về ngư nghiệp Nghêu Bến Tre Phân bố nghêu Ấu trùng nghêu Rừng ngập mặnGợi ý tài liệu liên quan:
-
78 trang 344 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 243 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 238 0 0 -
225 trang 222 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 197 0 0 -
2 trang 195 0 0
-
13 trang 181 0 0
-
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 180 0 0 -
91 trang 175 0 0
-
8 trang 153 0 0