Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (Scylla paramamosain) thương phẩm
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 386.09 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cua lột có giá trị dinh dưỡng cao, vỏ mềm và được nhiều người ưa chuộng ở Việt Nam. Chất lượng nguyên liệu thức ăn và đặc điểm dinh dưỡng của cua trước và sau khi lột là những nền tảng cơ bản trong việc nghiên cứu tạo thức ăn hỗn hợp cho việc sản xuất cua lột thương phẩm. Thức ăn nuôi cua, nguyên liệu thức ăn và cua nguyên con trước và sau khi lột được phân tích thành phần sinh hóa.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (Scylla paramamosain) thương phẩm VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT THỨC ĂN HỖN HỢP TẠO CUA LỘT (Scylla paramamosain) THƯƠNG PHẨM Lê Hoàng1*, Nguyễn Thành Trung1, Trần Thị Lệ Trinh1, Nguyễn Văn Nguyện1 TÓM TẮT Cua lột có giá trị dinh dưỡng cao, vỏ mềm và được nhiều người ưa chuộng ở Việt Nam. Chất lượng nguyên liệu thức ăn và đặc điểm dinh dưỡng của cua trước và sau khi lột là những nền tảng cơ bản trong việc nghiên cứu tạo thức ăn hỗn hợp cho việc sản xuất cua lột thương phẩm. Thức ăn nuôi cua, nguyên liệu thức ăn và cua nguyên con trước và sau khi lột được phân tích thành phần sinh hóa. Kết quả phân tích cho thấy cám gạo lau khô, cám chà và bột gan mực chứa hàm lượng béo cao (16,15,17,64% và 13,78% tương ứng), trong khi thức ăn nuôi cua thương phầm tại vùng Cần Giờ có hàm lượng dinh dưỡng khá thấp (protein: 17,22%; lipid: 6,56% và xơ: 10,76%). Ngoài ra, có sự thay đổi về thành phần dinh dưỡng trong thân cua trước và sau khi lột, trong đó hàm lượng protein, lipid của cua tăng đáng kể sau khi lột (protein: 44,1% vs 71,38%; lipid: 6,25% vs 13,66%) ngược lại hàm lượng canxi và khoáng giảm rõ rệt (canxi: 14,69% vs 2,71%; khoáng: 43,55% vs 13,66%), đặc biệt hàm lượng axit béo C18:1 và C18:2 tăng mạnh (2,76% và 3.98 %) so với giai đoạn trước khi lột (0,44% và 0,10%). Từ khóa: cua lột, cua biển, Scylla paramamosain, thức ăn hỗn hợp, nguyên liệu, thành phần hóa học.I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nuôi cua biển (Scylla spp) được nuôi rộng Đài Loan, Mỹ và Châu Âu (FAO, 2015).rãi ở nhiều nước trong khu vực Châu Á như Ghẹ xanh (Portunus pelagicus) là sản phẩmPhilippines, Indonesia, Myanmar, Ấn Độ, Nhật được ưa chuộng trên thị trường thế giới do thànhBản, Thái Lan, Việt Nam (Keenan, 1999; FAO, phần dinh dưỡng cao, đặc biệt là hàm lượng2015). Cua biển có kích thước tương đối lớn, canxi và phospho cao, dễ hấp thụ (Nguyễn Thịthịt nhiều, thơm ngon nên nó là đối tượng nuôi Bích Thuý và ctv., 2004). Bên cạnh việc chứatrồng thủy sản tiềm năng ở nhiều nơi trên thế hàm lượng protein và khoáng cao, thịt cua lộtgiới (Keenan, 1999; Christensen và ctv., 2004; còn chứa nhiều loại axit amino cần thiết choFAO, 2015). cơ thể (Sudhakar và ctv., 2009). Giá của sản Bên cạnh việc nuôi cua con thành cua thịt, phẩm cua (Portunidae) có vỏ mềm có thể bánnuôi cua gạch trong ao và lồng, việc nuôi cua lột cao hơn gấp 7 lần so với giá của sản phẩm cuacũng đang được quan tâm ở các nước như Thái có vỏ cứng (Wickins và Lee, 2002; Tavares vàLan, Myanmar, Việt Nam, Malaysia, Indonesia ctv., 2017). Sự chênh lệch giá hai sản phẩm này(FAO, 2015). Cua biển (Scylla spp) thường là mối quan tâm của các nhà quản lý và kinhđược bán dưới dạng sống ngoại trừ cua lột. Giá doanh thủy sản cũng như các nhà nghiên cứucua phụ thuộc vào mùa vụ, kích cỡ, chất lượng với mục đích tạo ra công nghệ sản xuất cua lộtcua, giới tính, tình trạng tuyến sinh dục. Cua đạt hiệu quả kinh tế cao.sống thường được xuất khẩu sang Hồng Kông, Ở Việt Nam, cua biển (Scylla spp.) đượcSingapore, Hàn Quốc, Đài Loan (FAO, 2015). nuôi từ những năm 1990 chủ yếu ở các tỉnhNgoài kích cỡ, giá của sản phẩm cua lột còn ven biển, với phương thức nuôi trong ao hoặcphụ thuộc vào tình trạng vỏ cua. Cua lột thường nuôi chung với tôm và cá, cho ăn thức ăn tươiđược tiêu thụ tại địa phương hoặc xuất bán sang từ còng và cá tạp xay nhỏ (Christensen và ctv.,1 Trung tâm công nghệ thức ăn và Sau thu hoạch thủy sản, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.* Email: 72hoang@gmail.comTẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 59 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II2004), hoặc cho ăn theo nhiều giai đoạn sử dụng loạt giúp người nuôi chủ động trong quản lý,thức ăn của tôm cho giai đoạn đầu và thức ăn giảm thiểu công lao động, hiệu quả cao, tăngít đạm cho giai đoạn thương phẩm. Hiện nay, năng suất, tiến tới công nghiệp hoá, chuyên mônnghề nuôi cua biển (Scylla spp) đã phát triển hoá nghề nuôi cua lột. Thông tin về nhu cầurộng ra nhiều tỉnh ven biển từ Quảng Ninh cho dinh dưỡng của cua ở giai đoạn lột rất hạn chếtới Cà Mau. Tuy vậy, một trong những khó khăn do đó cần có các nghiên cứu về thành phần sinhchính của người nuôi hiện nay là thức ăn, nhất là hoá trong c ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (Scylla paramamosain) thương phẩm VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT THỨC ĂN HỖN HỢP TẠO CUA LỘT (Scylla paramamosain) THƯƠNG PHẨM Lê Hoàng1*, Nguyễn Thành Trung1, Trần Thị Lệ Trinh1, Nguyễn Văn Nguyện1 TÓM TẮT Cua lột có giá trị dinh dưỡng cao, vỏ mềm và được nhiều người ưa chuộng ở Việt Nam. Chất lượng nguyên liệu thức ăn và đặc điểm dinh dưỡng của cua trước và sau khi lột là những nền tảng cơ bản trong việc nghiên cứu tạo thức ăn hỗn hợp cho việc sản xuất cua lột thương phẩm. Thức ăn nuôi cua, nguyên liệu thức ăn và cua nguyên con trước và sau khi lột được phân tích thành phần sinh hóa. Kết quả phân tích cho thấy cám gạo lau khô, cám chà và bột gan mực chứa hàm lượng béo cao (16,15,17,64% và 13,78% tương ứng), trong khi thức ăn nuôi cua thương phầm tại vùng Cần Giờ có hàm lượng dinh dưỡng khá thấp (protein: 17,22%; lipid: 6,56% và xơ: 10,76%). Ngoài ra, có sự thay đổi về thành phần dinh dưỡng trong thân cua trước và sau khi lột, trong đó hàm lượng protein, lipid của cua tăng đáng kể sau khi lột (protein: 44,1% vs 71,38%; lipid: 6,25% vs 13,66%) ngược lại hàm lượng canxi và khoáng giảm rõ rệt (canxi: 14,69% vs 2,71%; khoáng: 43,55% vs 13,66%), đặc biệt hàm lượng axit béo C18:1 và C18:2 tăng mạnh (2,76% và 3.98 %) so với giai đoạn trước khi lột (0,44% và 0,10%). Từ khóa: cua lột, cua biển, Scylla paramamosain, thức ăn hỗn hợp, nguyên liệu, thành phần hóa học.I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nuôi cua biển (Scylla spp) được nuôi rộng Đài Loan, Mỹ và Châu Âu (FAO, 2015).rãi ở nhiều nước trong khu vực Châu Á như Ghẹ xanh (Portunus pelagicus) là sản phẩmPhilippines, Indonesia, Myanmar, Ấn Độ, Nhật được ưa chuộng trên thị trường thế giới do thànhBản, Thái Lan, Việt Nam (Keenan, 1999; FAO, phần dinh dưỡng cao, đặc biệt là hàm lượng2015). Cua biển có kích thước tương đối lớn, canxi và phospho cao, dễ hấp thụ (Nguyễn Thịthịt nhiều, thơm ngon nên nó là đối tượng nuôi Bích Thuý và ctv., 2004). Bên cạnh việc chứatrồng thủy sản tiềm năng ở nhiều nơi trên thế hàm lượng protein và khoáng cao, thịt cua lộtgiới (Keenan, 1999; Christensen và ctv., 2004; còn chứa nhiều loại axit amino cần thiết choFAO, 2015). cơ thể (Sudhakar và ctv., 2009). Giá của sản Bên cạnh việc nuôi cua con thành cua thịt, phẩm cua (Portunidae) có vỏ mềm có thể bánnuôi cua gạch trong ao và lồng, việc nuôi cua lột cao hơn gấp 7 lần so với giá của sản phẩm cuacũng đang được quan tâm ở các nước như Thái có vỏ cứng (Wickins và Lee, 2002; Tavares vàLan, Myanmar, Việt Nam, Malaysia, Indonesia ctv., 2017). Sự chênh lệch giá hai sản phẩm này(FAO, 2015). Cua biển (Scylla spp) thường là mối quan tâm của các nhà quản lý và kinhđược bán dưới dạng sống ngoại trừ cua lột. Giá doanh thủy sản cũng như các nhà nghiên cứucua phụ thuộc vào mùa vụ, kích cỡ, chất lượng với mục đích tạo ra công nghệ sản xuất cua lộtcua, giới tính, tình trạng tuyến sinh dục. Cua đạt hiệu quả kinh tế cao.sống thường được xuất khẩu sang Hồng Kông, Ở Việt Nam, cua biển (Scylla spp.) đượcSingapore, Hàn Quốc, Đài Loan (FAO, 2015). nuôi từ những năm 1990 chủ yếu ở các tỉnhNgoài kích cỡ, giá của sản phẩm cua lột còn ven biển, với phương thức nuôi trong ao hoặcphụ thuộc vào tình trạng vỏ cua. Cua lột thường nuôi chung với tôm và cá, cho ăn thức ăn tươiđược tiêu thụ tại địa phương hoặc xuất bán sang từ còng và cá tạp xay nhỏ (Christensen và ctv.,1 Trung tâm công nghệ thức ăn và Sau thu hoạch thủy sản, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.* Email: 72hoang@gmail.comTẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 59 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II2004), hoặc cho ăn theo nhiều giai đoạn sử dụng loạt giúp người nuôi chủ động trong quản lý,thức ăn của tôm cho giai đoạn đầu và thức ăn giảm thiểu công lao động, hiệu quả cao, tăngít đạm cho giai đoạn thương phẩm. Hiện nay, năng suất, tiến tới công nghiệp hoá, chuyên mônnghề nuôi cua biển (Scylla spp) đã phát triển hoá nghề nuôi cua lột. Thông tin về nhu cầurộng ra nhiều tỉnh ven biển từ Quảng Ninh cho dinh dưỡng của cua ở giai đoạn lột rất hạn chếtới Cà Mau. Tuy vậy, một trong những khó khăn do đó cần có các nghiên cứu về thành phần sinhchính của người nuôi hiện nay là thức ăn, nhất là hoá trong c ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nuôi trồng thủy sản Bài viết về ngư nghiệp Nuôi cua biển Sản xuất cua lột thương phẩm Portunus pelagicusGợi ý tài liệu liên quan:
-
78 trang 344 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 245 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 240 0 0 -
225 trang 222 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 198 0 0 -
2 trang 197 0 0
-
13 trang 181 0 0
-
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 181 0 0 -
91 trang 175 0 0
-
8 trang 153 0 0