Danh mục

NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 3

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 152.29 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNGTác giả: Lê Mạnh Phát 3Trong liên hệ này cần nói một chút về chữ Thực của tên Việt gian Lê Thực. Trong tiếng Hán tên này được viết () và các sử sách viết bằng tiếng quốc ngữ trước nay thường phiên âm là Tắc hoặc Trắc. Tuy nhiên, ĐVSKTT 5 tờ 46b5-6, dưới chữ () ấy được chua là “thổ lực thiết”. Điều này có nghĩa, ta phải đọc chữ ( ) là Thực thay vì Trắc hoặc Tắc. Thứ ba, về tên các nhà lãnh đạo Việt Nam, cụ thể là các...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 3 NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG Tác giả: Lê Mạnh Phát 3 Trong liên hệ này cần nói một chút về chữ Thực của tên Việt gian Lê Thực.Trong tiếng Hán tên này được viết () và các sử sách viết bằng tiếng quốc ngữtrước nay thường phiên âm là Tắc hoặc Trắc. Tuy nhiên, ĐVSKTT 5 tờ 46b5-6,dưới chữ () ấy được chua là “thổ lực thiết”. Điều này có nghĩa, ta phải đọc chữ ( )là Thực thay vì Trắc hoặc Tắc. Thứ ba, về tên các nhà lãnh đạo Việt Nam, cụ thểlà các vị vua nhà Trần, do sử liệu Trung Quốc ghi lại. Đây là một vấn đề khó khăn.Khi nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của nhà Trần trongAnnam shi kenkyu, Yamamoto đã dành hẳn một chương để nghiên cứu vấn đềnày, tức Chinchõ no omei ni kansuru kenkyu.1 Dẫu thế, những kết luận củaYamamoto theo chúng tôi vẫn chưa thỏa đáng lắm. Vì vậy, cần phải làm nhữngnghiên cứu mới. Đây là một yêu cầu, mà ta phải thỏa mãn để việc trình bày các sửkiện cũng như các tác phẩm liên hệ đến vua Trần Nhân Tông mới rõ ràng và cótính thuyết phục cao. Theo các sử liệu Trung Quốc, cụ thể là An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ1a8 và 1b4, thì vị vua đầu tiên của nhà Trần là Trần Nhật Cảnh, “đến tháng hainăm Mậu Ngọ thì Nhật Cảnh truyền nước cho con trưởng là Quang Bính, cảinguyên là Thiệu Long... ”. Điều này hoàn toàn phù hợp với những gì do Ngô SĩLiên chép lại trong ĐVSKTT. ĐVSKTT quyển 5 tờ 24a4-6 viết: “Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ, vua nhườngngôi cho Hoàng Thái tử, rút lui về ở Bắc cung. Thái tử lên ngôi Hoàng đế cảinguyên là Thiệu Long”. Vậy rõ ràng Quang Bính của Nguyên sử là một tên kháccủa vua Trần Thánh Tông trong ĐVSKTT. Tiếp đến, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 3b13 viết: “Năm (Chí Nguyên)14, Quang Bính chết, người trong nước lập thế tử Nhật Huyên, sai trung thị đạiphu Châu Trọng Ngạn, trung lượng đại phu Ngô Đức Thiệu đến chầu”. Năm ChíNguyên thứ 14 tức năm 1277. Đây đúng là năm vua Trần Thái Tông Nhật Cảnhmất, như ĐVSKTT 5 tờ 59a6-7 đã ghi. Chính dựa vào năm mất này của QuangBính, mà Yamamoto đã đi đến kết luận Quang Bính chính là một tên khác của vuaTrần Thái Tông và Trần Nhật Huyên là tên của vua Trần Thánh Tông. Tuy nhiên, Bản kỷ của Nguyên sử 10 tờ 4a12 lại chép: “Năm (Chí Nguyên) 15,tháng sáu ngày Tân Tỡ, vua nước An Nam là Trần Quang Bính sai sứ dâng biểuđến cống”. Rõ ràng nếu Quang Bính chết vào năm Chí Nguyên thứ 14 (1277) thìtất nhiên đến năm Chí Nguyên thứ 15 không thể nào gửi sứ đến cống được.Yamamoto cho là An Nam truyện chép nhầm 14 thành 15. Song một đề xuất nhưthế tỏ ra không thuyết phục lắm, vì nếu Quang Bính là một tên khác của vua TrầnThánh Tông, thì năm Chí Nguyên 15 vẫn còn gửi sứ qua Nguyên. Dù với trườnghợp nào đi nữa, trong Nguyên sử ta có hai thông tin khác nhau về Quang Bính.Một nói Quang Bính chết năm 1277, và một nói Quang Bính năm 1278 còn gửi sứqua cống. Vậy không thể đơn giản chỉ dựa vào năm mất của Quang Bính ở AnNam truyện của Nguyên sử để kết luận Quang Bính là tên vua Trần Thánh Tông,như Yamamoto đã làm. Ngoài ra, Bản kỷ của Nguyên sử 10 tờ 13b3-4 chép: “Ngày Nhâm Tý tháng 11năm Chí Nguyên 16 (1279) sai Lễ bộ thượng thư Sài Thung cùng đi với sứ nướcAn Nam là Đỗ trung tán đem chiếu đến dụ thế tử An Nam là Trần Nhật Huyên vàochầu”. Điều này xác định tên Nhật Huyên chỉ xuất hiện trong sử sách Trung Quốcvào thời điểm, khi vua Trần Nhân Tông đã lên ngôi, tức tháng 10 năm Mậu Dần(1278), như ĐVSKTT 5 tờ 37b9 - 38a1 đã ghi cùng với việc vua Trần Nhân Tôngsau đó đã tiếp phái bộ của Sài Thung. Thêm vào đó, tên Trần Nhật Huyên còn xuất hiện một năm sau khi vua TrầnThánh Tông đã mất, tức năm Chí Nguyên thứ 28 (1291). Bản kỷ của Nguyên sử16 tờ 11b8-9 chép: “Năm (Chí Nguyên) thứ 28 tháng 9 ngày Tân Hợi, vua AnNam là Trần Nhật Huyên sai sứ dâng biểu cống phương vật, vừa để tạ tội khôngđến chầu”. Sự kiện này, Yamamoto có đề cập tới, nhưng cho đây là một chép sai. Tuynhiên, căn cứ vào những sự kiện, như ta vừa thấy trên và theo cách đồng nhất củachúng tôi, thì Trần Nhật Huyên ở đây chính là vua Trần Nhân Tông, chứ khôngphải vua Trần Thánh Tông. Cần nhớ là Bản kỷ của Nguyên sử chép Quang Bínhcòn sai sứ qua Nguyên sau khi vua Trần Thái Tông đã chết được một năm. Mộtlần nữa, vua Thánh Tông đã mất một năm, mà Nhật Huyên còn gửi sứ. Việc đồngnhất Quang Bính với vua Trần Thánh Tông và Nhật Huyên với vua Trần NhânTông cho phép ta không cần phải nại đến những giả thiết của sự chép sai. Thực tế,Bản kỷ ít chép sai hơn phần Liệt truyện nhiều, bởi vì Bản kỷ chỉ ghi chép dựa vàoKhởi cư chú, tức nhật ký những việc làm của vua hằng ngày như tiếp sứ, nhậnbiểu tấu, ra chiếu chỉ v.vỢ, trong khi Liệt truyện phải tổng hợp nhiều nguồn t ư liệukhác nhau, do đó dễ đưa đến sai sót. Hơn nữa, Kinh thế đại điển tự lục do Triệu Thế Diên và Ngu Tập soạn vàonhững năm 1330-1331, về mục Chinh phạt, ...

Tài liệu được xem nhiều: