Danh mục

NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 4

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 155.07 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNGTác giả: Lê Mạnh Phát 4Chi tiết thứ hai là việc An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7a10-12 ghi lại báo cáo mô tả những gì, mà quân Nguyên khi chiếm Thăng Long đã thấy được trong cuộc chiến tranh năm 1285. Theo đó thì “Nhật Huyên tiếm xưng Đại Việt quốc chúa, Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu hoàng đế Trần Uy Hoảng, nhường ngôi cho Hoàng thái tử, lập Hoàng thái tử phi làm hoàng hậu. (...) Nhật Huyên liền ở ngôi Thái Thượng hoàng, thấy lập vua nước...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 4 NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG Tác giả: Lê Mạnh Phát 4 Chi tiết thứ hai là việc An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7a10-12 ghi lạibáo cáo mô tả những gì, mà quân Nguyên khi chiếm Thăng Long đã thấy đượctrong cuộc chiến tranh năm 1285. Theo đó th ì “Nhật Huyên tiếm xưng Đại Việtquốc chúa, Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu hoàng đế Trần Uy Hoảng,nhường ngôi cho Hoàng thái tử, lập Hoàng thái tử phi làm hoàng hậu. (...) NhậtHuyên liền ở ngôi Thái Thượng hoàng, thấy lập vua nước An Nam thuộc hệ concủa Nhật Huyên, lưu hành niên hiệu Thiệu Bảo”. Hiến Thiên Thể Đạo Đại MinhQuang Hiếu hoàng đế đúng là tôn hiệu của vua Trần Thánh Tông như ĐVSKTT 5tờ 24b8 đã ghi. Và niên hiệu Thiệu Bảo đúng là niên hiệu của vua Trần NhânTông, mà ở đây được xác định là niên hiệu thuộc con của Nhật Huyên. Căn cứ vào hai chi tiết này, Nhật Huyên quả là tên chỉ vua Trần Thánh Tông, vàNhật Tôn quả chỉ vua Trần Nhân Tông. Tuy vậy, không thể hoàn toàn dựa vào haichi tiết này để xác định Quang Bính là tên vua Trần Thái Tông, Nhật Huyên là tênvua Trần Thánh Tông và Nhật Tôn là tên vua Trần Nhân Tông, như Yamamoto đãlàm. Lý do nằm ở chỗ nếu đem hai chứng cớ này so với bốn chứng cớ trên thì chỉsố lượng thôi cũng không cho phép ta đi đến một kết luận kiểu ấy. Sự thật, tất cả rối rắm đấy có nguyên do của nó. Nguyên do thứ nhất là sự lênngôi và thoái vị của các vua Việt Nam cho đến thời đại vua Trần Nhân Tông và trởvề sau thường không được báo cáo hoàn toàn chính xác trong các văn thư gửi chocác vua Trung Quốc. Chẳng hạn, ngay từ thời Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn đã viếtthư cho vua Tống như là lãnh tụ tối cao của nước Đại Cồ Việt, chứ không phải làĐinh Tiên Hoàng, như Tống sử ghi. Gần hơn, sau thời vua Trần Nhân Tông, tathấy An Nam truyện của Nguyên sử ghi rời rạc tên của những người kế nghiệpnhư Nhật Sủy vào năm Chí Đại thứ 5 (1311), Nhật Khoáng năm Thái Định thứnhất (1324), mà trong sử liệu Việt Nam, cụ thể là ĐVSKTT, ta không bao gờ tìmthấy những tên người như thế. Xuất phát từ những văn thư qua lại không chính xác này giữa Việt Nam vàTrung Quốc, sự rối rắm càng gia tăng vào thời điểm vua Trần Nhân Tông lãnh đạokháng chiến trong cuộc chiến tranh năm 1285, do sự có mặt của một số t ên Việtgian đầu hàng giặc như Trần Ích Tắc, Trần Văn Lộng, Lê Thực trong hàng ngũ đốiphương. Chính bọn này đã cung cấp những báo cáo nhiều mặt về đất nước ta,trong đó chắc chắn có cả việc lên ngôi và thoái vị của các vua chúa Việt Nam vàquan hệ giữa họ với nhau. Chính từ những báo cáo của chúng và từ những văn thưvừa nói đã tạo nên mớ hỗn độn mâu thuẫn, nh ư vừa thấy ở trên. Và đấy là nguyêndo thứ hai. Do thế, ta không thể dựa vào các sử liệu Trung Quốc để đồng nhất cáctên do chúng ghi lại với tên các vị vua có trong sử liệu Việt Nam. Phải hoàn toàndựa vào sử liệu Việt Nam, lấy chúng làm cơ sở để xác định tên các vị vua xuấthiện trong sử liệu Trung Quốc là ai. Sử liệu Trung Quốc trong tr ường hợp này chỉdùng để tham khảo. Quan điểm chúng tôi, vì vậy, không chấp nhận cách giải quyết của Yamamotobằng việc đồng nhất Quang Bính với vua Trần Thái Tông, Nhật Huyên với vuaTrần Thánh Tông và Nhật Tôn với vua Trần Nhân Tông, do việc những sử liệukhông cho phép đồng nhất một cách dễ dàng như thế, ngay cả về phía TrungQuốc, mà ta đã thấy trên. Chúng có quá nhiều mâu thuẫn. Cho nên, cách giải quyếtcủa chúng tôi là lấy chính sử Việt Nam làm sử liệu cơ bản. Căn cứ trên các cơ sởsử liệu này, chúng tôi coi Quang Bính chính là vua Trần Thánh Tông, Nhật Huyênvà Nhật Tôn chính là những tên gọi khác nhau của vua Trần Nhân Tông, còn NhậtSủy và Nhật Khoáng là chỉ vua Trần Anh Tông và vua Trần Minh Tông. Đặc biệt,việc đồng nhất Nhật Huyên và Nhật Tôn với vua Trần Nhân Tông, vì vua TrầnNhân Tông là đối tượng nghiên cứu của chúng ta. Sự đồng nhất các tên gọi kể trên xuất phát từ hai nguồn sử liệu khác nhau. Thứnhất, về phía Trung Quốc, cụ thể là Nguyên sử Bản kỷ và Kinh thế đại điển tự lục,đều xác nhận Quang Bính sống cho đến năm Chí Nguyên 15 (1278) trong khi vuaTrần Thái Tông mất trước đó một năm (1277), và Nhật Huyên năm 1279 mới saisứ qua cống cho đến năm 1291, nghĩa là sau khi Trần Thánh Tông mất một nămvà có Thượng hoàng của mình trong cuộc chiến năm 1285. Và thứ hai, về phía sử liệu Việt Nam, Hồ Nguyên Trừng và Ngô Sĩ Liên chorằng “Gia pháp của họ Trần... thì khi con đã lớn liền cho nối ngôi chính, cha lui ởcung Thánh Từ xưng là Thượng hoàng, cùng trông coi chính sự, kỳ thực chỉtruyền ngôi để yên việc sau, phòng khi thảng thốt mà thôi, chứ mọi việc đều do ởThượng hoàng quyết định cả” (Nam ông mộng lục, tờ 3a7-9 và ĐVSKTT 5 tờ24a9-b3). Song trong trường hợp vua Trần Nhân Tông, dù Thượng hoàng ThánhTông đang còn, nhưng tất cả mọi việc đều chính do vua Trần Nhân Tông quyếtđịnh. Thí dụ điển hình là sự kiện ...

Tài liệu được xem nhiều: