Danh mục

Người khống chế nhiễm trùng ngoại khoa Những năm đầu của thế kỷ 19, phẫu

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 273.60 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Người khống chế nhiễm trùng ngoại khoaNhững năm đầu của thế kỷ 19, phẫu thuật ngoại khoa đã có mặt phổ biến ở tất cả các bệnh viện lớn nhỏ trên thế giới. Tuy nhiên, khi đó không mấy ai có ý thức đầy đủ về công việc phẫu thuật. Tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ rất cao, vết thương nào cũng có mủ. Chẳng ai để tâm đến chuyện vốn từ xưa vẫn thường xảy ra ấy trừ một phẫu thuật viên lành nghề tên là Joseph Lister, khi đó đang phụ trách Khoa Ngoại lâm sàng của Bệnh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Người khống chế nhiễm trùng ngoại khoa Những năm đầu của thế kỷ 19, phẫu Người khống chế nhiễm trùng ngoại khoa Những năm đầu của thế kỷ 19, phẫu thuật ngoại khoa đã có mặt phổbiến ở tất cả các bệnh viện lớn nhỏ trên thế giới. Tuy nhiên, khi đó khôngmấy ai có ý thức đầy đủ về công việc phẫu thuật. Tỷ lệ nhiễm tr ùng sau mổrất cao, vết thương nào cũng có mủ. Chẳng ai để tâm đến chuyện vốn từ xưavẫn thường xảy ra ấy trừ một phẫu thuật vi ên lành nghề tên là Joseph Lister,khi đó đang phụ trách Khoa Ngoại lâm sàng của Bệnh viện Hoàng giaGlasgow (Anh)... Joseph Lister (1827-1912). Những viên gạch nền móng của kỹ thuật sát trùng Đầu thế kỷ 19, vai trò của phẫu thuật trong điều trị bệnh tật và thương tổnđã được khẳng định. Rất nhiều bệnh nhân đã qua cơn thập tử nhất sinh nhờ phẫuthuật. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong trong điều trị lại không thấy giảm đi là mấy. Khôngít bệnh nhân tưởng đã được cứu sống nhờ phẫu thuật thì sau đó lại chết dần chếtmòn vì những biến chứng do phẫu thuật. Chẳng ai hiểu nguyên nhân vì sao, càngkhông biết phương cách nào để phòng chống hiện trạng bi đát này. Tại Bệnh viện Hoàng gia Glasgow, những ca nhiễm trùng nặng và tử vongsau các cuộc phẫu thuật được cho là thành công luôn làm vị giáo sư trẻ JosephLister, năm đó mới 33 tuổi đang đảm nhiệm trọng trách Tr ưởng Khoa ngoại lâmsàng đau đầu và trăn trở. Lister để tâm chú ý và nhận thấy các vết thương gãyxương kín, mặc dù bị bầm giập nhiều nhưng sau khi điều trị vẫn dễ lành khỏi. Tráilại những vết thương hở có rách da thường dễ bị nhiễm trùng nặng, khó chữa khỏivà nguy hại cho tính mạng người bệnh. Vì sao thế nhỉ? Do vết thương có tiếp xúcvới không khí ư? Có yếu tố gây nhiễm trùng luôn tồn tại trong không khí chăng?Lister suy nghĩ nhưng chưa tìm được câu trả lời. Năm 1865, trong một cuộc thảo luận về vấn đề nhiễm trùng với giáo sư hóahọc Thomas Anderson, Lister được giới thiệu cuốn sách có nhan đề Nghiên cứu vềhiện tượng thối rữa của nhà hóa học người Pháp Louis Pasteur, Lister thật ngạcnhiên và chú ý đến luận điểm của Pasteur cho rằng trong không khí có những mầmvi sinh vật, đây chính là nguyên nhân gây hiện tượng lên men và thối rữa. Phảichăng ở nơi phòng mổ, không khí cũng chứa đầy những mầm đó? Chúng bám vàobàn mổ, dao mổ, quần áo thầy thuốc mổ và khi lưỡi dao rạch trên da bệnh nhâncũng chính là lúc các mầm vi sinh vật xâm nhập vào các tổ chức thương tổn, pháttriển và tạo thành mủ, có thật như vậy không? Lister suy nghĩ và ông quyết địnhphải loại bỏ các mầm vi sinh vật đó, nh ưng bằng cách nào nhỉ? Theo Pasteur, cóthể dùng phương pháp đun sôi để loại bỏ vi khuẩn, nhưng tại bệnh viện thì thậtkhó áp dụng phương pháp này. Một buổi chiều, trong khi dạo chơi, Lister dừng lại trước một bể lớn chứanước cống của thành phố. Nước đục đen ngòm, trên bề mặt phủ một chất nhầy đặcquánh. Lister cất công tìm hỏi nhiều người, hỏi cả vị giáo sư hóa học và được biếtđó là chất acid carbolic, được dùng để thanh khiết, tẩy trùng. Đầu năm 1865,Lister quyết định thử nghiệm phương pháp tẩy trùng bằng acid carbolic cho cáctrường hợp gãy xương hở. Ông làm những gạc sát trùng tẩm acid carbolic (bây giờgọi là phenol). Đối với những trường hợp gãy xương phức tạp, khó tránh khỏinhiễm trùng và tử vong, ông còn rửa vết thương bằng acid carbolic và dùng gạc sáttrùng tẩm acid carbolic băng kín lại, đồng thời thường xuyên thay gạc. Ông ngạcnhiên nhận thấy vết thương khô sạch, không có chút mủ nào và liền sẹo rất nhanh.Trong suốt 18 tháng liền, Lister đã dùng phương pháp này để điều trị thử nghiệmcho 12 bệnh nhân gãy xương hở, kết quả: 8 người khỏi hoàn toàn, 1 người bị hoạithư rồi cũng khỏi, 1 người phải cắt chi, chỉ có 2 người chết. Tháng 3/1867, trên tờ Lancet, nội san của giới khoa học Anh, Lister thôngbáo: Một phương pháp mới để điều trị gãy xương có biến chứng với 10/12trường hợp đều khỏi (trừ 2 bị chết ngay) trong đó có 7 bị rách da nặng. V ài thángsau ông cho xuất bản chuyên đề Về nguyên tắc sát trùng trong phẫu thuật để xácnhận những điểm cơ bản của phương pháp mới là hủy diệt các mầm bệnh khôngcho xâm nhập vào các vết thương hở bằng cách sát trùng. Ông đề ra cách băng bóvết thương với nhiều lớp gạc có tẩm acid phenic, các dụng cụ phẫu thuật đều đ ượcngâm trong dung dịch sát trùng, thậm chí ông còn sáng chế một máy bơm phunnhững hạt nước dịch acid carbolic 2% thành một màn sương mù trong phòng mổđể tiêu diệt các mầm bệnh có trong không khí. Bơm thuốc sát khuẩn trước khi làm phẫu thuật. Nhọc nhằn để được thừa nhận Sáng kiến của Lister ngay từ buổi đầu không đ ược các phẫu thuật viênngười Anh chấp nhận dễ dàng. Trong nhiều năm (có đến 25 năm), từ khi Listercông bố công trình của mình, ở nhiều khoa lâm sàng, kỹ thuật sát trùng của ôngkhông được áp dụng... Lúc này, chính bản thân Lister cũng chưa ...

Tài liệu được xem nhiều: