Nguy cơ dịch bệnh và thua lỗ
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 170.59 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hiện nay, phong trào nuôi tôm thẻ chân trắng (TTCT) ở các tỉnh duyên hải miền Trung đã qua thời kỳ hoàng kim và đang có nguy cơ lặp lại “vết xe đổ”: dịch bệnh và thua lỗ. Nguyên nhân chính là môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Bài toán môi trường: lợi bất cập hại Những năm 2000-2002, người nông dân đang “loay hoay” với sự hành hoành dịch bệnh của tôm sú, TTCT được nuôi thử nghiệm và thành công ở vùng cát ven biển như là một cơ hội mới cho nông dân. Lợi nhuận...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguy cơ dịch bệnh và thua lỗNguy cơ dịch bệnh và thua lỗHiện nay, phong trào nuôi tôm thẻ chân trắng (TTCT) ở các tỉnhduyên hải miền Trung đã qua thời kỳ hoàng kim và đang có nguycơ lặp lại “vết xe đổ”: dịch bệnh và thua lỗ. Nguyên nhân chính làmôi trường chưa được quan tâm đúng mức.Bài toán môi trường: lợi bất cập hạiNhững năm 2000-2002, người nông dân đang “loay hoay” với sựhành hoành dịch bệnh của tôm sú, TTCT được nuôi thử nghiệm vàthành công ở vùng cát ven biển như là một cơ hội mới cho nông dân.Lợi nhuận từ việc nuôi tôm (khoảng 90 - 150 triệu đồng/ha/vụ), trongthời gian ngắn (trên dưới 100 ngày) thật hấp dẫn. Từ đó, diện tíchnuôi TTCT vùng cát được phát triển đến mức chóng mặt, chưa kể đếncon tôm sú được nuôi theo phương thức bán thâm canh ở vùng đầmcũng được thay thế bằng TTCT với mật độ thả cao gấp 3-4 lần, bấtchấp lời cảnh báo của cơ quan chuyên môn sở tại. Hiện nay, thực tế,bức tranh nuôi TTCT của các tỉnh miền Trung hiện nay không mấysáng sủa: dịch bệnh đã và đang trở lại!Theo báo cáo của Vụ Nuôi trồng thủy sản, tính đến 6 tháng đầu năm2010, hầu hết diện tích nuôi đối tượng này ở các tỉnh có xu hướngphát triển mạnh như Nghệ An có diện tích nuôi TTCT chiếm 86,9%tổng diện tích nuôi tôm cả tỉnh (730 ha), Quảng Nam: 92% (1282 ha),Quảng Ngãi: 97,4% (488), Phú Yên 69,9% (1.009 ha), Khánh Hòa84,1% (1490 ha), Ninh Thuận 79,2% (484 ha), Bình Thuận 100 %(400 ha )... Và cũng thấy rằng tỷ lệ dịch bệnh xảy trên đối tượngTTCT ở mức độ khá cao như tỉnh Quảng Ngãi, diện tích dịch bệnhchiếm 11,6% diện tích thả nuôi (58ha), Ninh Thuận 19,0 % (116 ha)Quảng Nam 44,9% (626 ha) Bình Thuận 17,5 % (70 ha) Phú Yên 25,7% ( 371 ha)… Bình Định là một trong số ít địa phương thực hiệntương đối tốt việc quản lý vùng nuôi đối tượng TTCT tỉnh, kiểm soátviệc phát triển diện tích nuôi đối tượng này, chỉ chiếm 21% (439 ha ),diện tích dịch bệnh chỉ chiếm 2,5% (33,6 ha).Đâu là cơ sở khoa học?Trước tiên là nguồn sản xuất giống. Không như tôm sú chủ yếu khaithác trong môi trường tự nhiên, giống TTCT được các công ty, tậpđoàn tầm cỡ quốc tế (CP Việt Nam, Công ty Việt – Úc, công tyUP...) chủ động tạo nguồn giống đạt chất lượng cao về kháng bệnh vàsự tăng trưởng. Đồng thời, ý thức về chất lượng con giống của nôngdân đã được đề cao. Như vậy, khả năng dịch bệnh do chất lượng congiống là tương đối thấp.Cần biết rằng, nuôi tôm mật độ cao nhanh chóng tạo ra môi trường ônhiễm ở dạng phì dưỡng. Các nguyên tố tạo sinh như Nitơ và Phốtpho được nông dân đưa vào ao nuôi tôm thông qua thức ăn, phân bónlà nguyên nhân gây ra vấn đề trên. Theo nghiên cứu của M.R.P.Briggsvà S.J.Funge Smith (1994): Lượng Nitơ đưa vào ao nuôi chiếm 95%tổng số Nitơ, khi thu hoạch tôm Nitơ chỉ chiếm 21%. Lượng Phốt phođưa vào ao nuôi thông qua thức ăn và phân bón chiếm 72% tổng sốPhốt pho đưa vào môi trường ao nuôi tôm. Khi thu hoạch tôm, Phốtpho chỉ chiếm 6%. Như thế lượng còn lại của Nitơ và Phốt pho “vềvới” môi trường: Nitơ tích lũy nhiều trong nước, Phốt pho tích lũynhiều trong đất. Khi lượng chất thải (từ ao nuôi tôm mật độ cao) đổvào thủy vực trong một chu kỳ sinh thái vượt quá khả năng tự làmsạch của vùng nước chung, gây ra hiện tượng tai biến hệ sinh thái, cácyếu tố môi trường ảnh hưởng tiêu cực đối với vật nuôi và tất yếu bệnhdịch sẽ xảy ra!Và giải phápTừ thực tế sản xuất nuôi thương phẩm TTCT của các tỉnh duyên hảimiền Trung, ngoài vấn đề con giống, cơ sở hạ tầng vùng nuôi, giảipháp duy nhất hiện nay là duy trì phong trào nuôi tôm phát triển theohướng bền vững. Cụ thể là:- Hàng năm phải tuân thủ theo lịch thời vụ của Sở NN&PTNT, cóhướng dẫn phương thức nuôi, thời gian và mật độ thả giống của mỗitiểu vùng. Cần tuyên truyền, vận động cho người nuôi không tự phátgia tăng, chuyển đổi diện tích nuôi. Chỉ phát triển nuôi TTCT ở nơimà nguồn nước ít có nguy cơ ô nhiễm.- Tăng cường công tác truyền thông để giải thích cho nông dân hiểunguyên nhân dịch bệnh tôm; Xây dựng mô hình nuôi tôm kết hợp cuacá ở vùng trung - hạ triều, đạt hiệu quả kinh tế đủ hấp dẫn cho nôngdân làm theo. Khôi phục hệ sinh thái rừng ngập mặn, tăng cường tínhcộng đồng trong vùng nuôi.- Tổ chức giám sát vùng nuôi một cánh chặt chẽ, thành lập ban chỉđạo phòng chống dịch bệnh tôm theo dõi kịp thời theo diễn biến củatừng vùng nuôi. Khi xuất hiện bệnh phải có sự phối hợp của các cơquan chức năng từ tỉnh đến chính quyền cơ sở tiến hành khoanh vùng,dập dịch. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguy cơ dịch bệnh và thua lỗNguy cơ dịch bệnh và thua lỗHiện nay, phong trào nuôi tôm thẻ chân trắng (TTCT) ở các tỉnhduyên hải miền Trung đã qua thời kỳ hoàng kim và đang có nguycơ lặp lại “vết xe đổ”: dịch bệnh và thua lỗ. Nguyên nhân chính làmôi trường chưa được quan tâm đúng mức.Bài toán môi trường: lợi bất cập hạiNhững năm 2000-2002, người nông dân đang “loay hoay” với sựhành hoành dịch bệnh của tôm sú, TTCT được nuôi thử nghiệm vàthành công ở vùng cát ven biển như là một cơ hội mới cho nông dân.Lợi nhuận từ việc nuôi tôm (khoảng 90 - 150 triệu đồng/ha/vụ), trongthời gian ngắn (trên dưới 100 ngày) thật hấp dẫn. Từ đó, diện tíchnuôi TTCT vùng cát được phát triển đến mức chóng mặt, chưa kể đếncon tôm sú được nuôi theo phương thức bán thâm canh ở vùng đầmcũng được thay thế bằng TTCT với mật độ thả cao gấp 3-4 lần, bấtchấp lời cảnh báo của cơ quan chuyên môn sở tại. Hiện nay, thực tế,bức tranh nuôi TTCT của các tỉnh miền Trung hiện nay không mấysáng sủa: dịch bệnh đã và đang trở lại!Theo báo cáo của Vụ Nuôi trồng thủy sản, tính đến 6 tháng đầu năm2010, hầu hết diện tích nuôi đối tượng này ở các tỉnh có xu hướngphát triển mạnh như Nghệ An có diện tích nuôi TTCT chiếm 86,9%tổng diện tích nuôi tôm cả tỉnh (730 ha), Quảng Nam: 92% (1282 ha),Quảng Ngãi: 97,4% (488), Phú Yên 69,9% (1.009 ha), Khánh Hòa84,1% (1490 ha), Ninh Thuận 79,2% (484 ha), Bình Thuận 100 %(400 ha )... Và cũng thấy rằng tỷ lệ dịch bệnh xảy trên đối tượngTTCT ở mức độ khá cao như tỉnh Quảng Ngãi, diện tích dịch bệnhchiếm 11,6% diện tích thả nuôi (58ha), Ninh Thuận 19,0 % (116 ha)Quảng Nam 44,9% (626 ha) Bình Thuận 17,5 % (70 ha) Phú Yên 25,7% ( 371 ha)… Bình Định là một trong số ít địa phương thực hiệntương đối tốt việc quản lý vùng nuôi đối tượng TTCT tỉnh, kiểm soátviệc phát triển diện tích nuôi đối tượng này, chỉ chiếm 21% (439 ha ),diện tích dịch bệnh chỉ chiếm 2,5% (33,6 ha).Đâu là cơ sở khoa học?Trước tiên là nguồn sản xuất giống. Không như tôm sú chủ yếu khaithác trong môi trường tự nhiên, giống TTCT được các công ty, tậpđoàn tầm cỡ quốc tế (CP Việt Nam, Công ty Việt – Úc, công tyUP...) chủ động tạo nguồn giống đạt chất lượng cao về kháng bệnh vàsự tăng trưởng. Đồng thời, ý thức về chất lượng con giống của nôngdân đã được đề cao. Như vậy, khả năng dịch bệnh do chất lượng congiống là tương đối thấp.Cần biết rằng, nuôi tôm mật độ cao nhanh chóng tạo ra môi trường ônhiễm ở dạng phì dưỡng. Các nguyên tố tạo sinh như Nitơ và Phốtpho được nông dân đưa vào ao nuôi tôm thông qua thức ăn, phân bónlà nguyên nhân gây ra vấn đề trên. Theo nghiên cứu của M.R.P.Briggsvà S.J.Funge Smith (1994): Lượng Nitơ đưa vào ao nuôi chiếm 95%tổng số Nitơ, khi thu hoạch tôm Nitơ chỉ chiếm 21%. Lượng Phốt phođưa vào ao nuôi thông qua thức ăn và phân bón chiếm 72% tổng sốPhốt pho đưa vào môi trường ao nuôi tôm. Khi thu hoạch tôm, Phốtpho chỉ chiếm 6%. Như thế lượng còn lại của Nitơ và Phốt pho “vềvới” môi trường: Nitơ tích lũy nhiều trong nước, Phốt pho tích lũynhiều trong đất. Khi lượng chất thải (từ ao nuôi tôm mật độ cao) đổvào thủy vực trong một chu kỳ sinh thái vượt quá khả năng tự làmsạch của vùng nước chung, gây ra hiện tượng tai biến hệ sinh thái, cácyếu tố môi trường ảnh hưởng tiêu cực đối với vật nuôi và tất yếu bệnhdịch sẽ xảy ra!Và giải phápTừ thực tế sản xuất nuôi thương phẩm TTCT của các tỉnh duyên hảimiền Trung, ngoài vấn đề con giống, cơ sở hạ tầng vùng nuôi, giảipháp duy nhất hiện nay là duy trì phong trào nuôi tôm phát triển theohướng bền vững. Cụ thể là:- Hàng năm phải tuân thủ theo lịch thời vụ của Sở NN&PTNT, cóhướng dẫn phương thức nuôi, thời gian và mật độ thả giống của mỗitiểu vùng. Cần tuyên truyền, vận động cho người nuôi không tự phátgia tăng, chuyển đổi diện tích nuôi. Chỉ phát triển nuôi TTCT ở nơimà nguồn nước ít có nguy cơ ô nhiễm.- Tăng cường công tác truyền thông để giải thích cho nông dân hiểunguyên nhân dịch bệnh tôm; Xây dựng mô hình nuôi tôm kết hợp cuacá ở vùng trung - hạ triều, đạt hiệu quả kinh tế đủ hấp dẫn cho nôngdân làm theo. Khôi phục hệ sinh thái rừng ngập mặn, tăng cường tínhcộng đồng trong vùng nuôi.- Tổ chức giám sát vùng nuôi một cánh chặt chẽ, thành lập ban chỉđạo phòng chống dịch bệnh tôm theo dõi kịp thời theo diễn biến củatừng vùng nuôi. Khi xuất hiện bệnh phải có sự phối hợp của các cơquan chức năng từ tỉnh đến chính quyền cơ sở tiến hành khoanh vùng,dập dịch. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nuôi trồng thủy sản hướng dẫn nuôi trồng thủy sản cẩm nang nuôi trồng thủy sản kinh nghiệm nuôi trồng thủy sảnGợi ý tài liệu liên quan:
-
78 trang 344 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 243 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 238 0 0 -
225 trang 222 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 197 0 0 -
2 trang 195 0 0
-
13 trang 181 0 0
-
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 180 0 0 -
91 trang 175 0 0
-
8 trang 153 0 0