Nguyên nhân gây ra đột quỵ
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 135.63 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đột quỵ là một bệnh ảnh hưởng đến các mạch máu cung cấp máu cho não.Cơn đột quỵ xuất hiện khi một mạch máu đưa ôxy và chất dinh dưỡng tới não bị vỡ (đột quỵ loại xuất huyết) hoặc bị tắc do cục máu đông hoặc do các khối khác nào đó (đột quỵ do thiếu máu não cục bộ).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguyên nhân gây ra đột quỵNguyên nhân gây ra đột quỵĐột quỵ là một bệnh ảnh hưởng đến các mạch máu cung cấp máu chonão.Cơn đột quỵ xuất hiện khi một mạch máu đưa ôxy và chất dinh dưỡngtới não bị vỡ (đột quỵ loại xuất huyết) hoặc bị tắc do cục máu đông hoặc docác khối khác nào đó (đột quỵ do thiếu máu não cục bộ).Khi xảy ra đứt gãy hoặc tắc nghẽn, các phần trong não không được nhận đủlượng máu và ôxy cần thiết. Không có ôxy, các tế bào thần kinh trong khuvực bị ảnh hưởng của não không thể làm việc bình thường, và hoại tử trongvòng vài phút (thông thường từ 3 đến 4 phút).Và khi các tế bào thần kinh không hoạt động, phần cơ thể do các tế bào đóđiều khiển cũng không thể hoạt động. Các tác động phá hủy của cơn đột quỵnghiêm trọng thường kéo dài vĩnh viễn vì những tế bào não đã chết khôngthể thay thế được.Có hai loại đột quỵ chính: đột quỵ do thiếu máu não cục bộ (do khối đôngtrong mạch máu gây ra) và đột quỵ do xuất huyết (do chảy máu gây ra).Đột quỵ loại xuất huyết có nguy cơ tử vong cao hơn nhiều so với đột quỵ dotắc nghẽn.Đột quỵ do thiếu máu não cục bộ là gì?Đột quỵ do thiếu máu não cục bộ là loại phổ biến nhất. Nó chiếm khoảng87% các ca đột quỵ. Nó xảy ra khi một cục máu đông (huyết khối) hìnhthành và ngăn cản dòng máu chảy vào một động mạch đưa máu tới một phầncủa não. Các cục máu đông thường hình thành trong động mạch bị phá hủydo tích tụ chất béo, gọi là xơ cứng thành động mạch.Khi cục máu đông hình thành trong một động mạch của não, nó được gọi làđột quỵ do nghẽn huyết khối. Loại này thường xảy ra vào đêm hoặc lúc sángsớm. Một đặc điểm phân biệt nữa là nó thường được báo hiệu trước bằngcơn thiếu máu thoáng qua. Đây được gọi là TIA hoặc “đột quỵ có cảnh báo”.TIA cũng có các triệu chứng giống như đột quỵ nhưng chỉ kéo dài vài phút;các triệu chứng của đột quỵ diễn ra lâu hơn nhiều và thường là thường trực.Nếu ai đó bị TIA, họ cần được chăm sóc khẩn cấp ngay lập tức.Thuyên tắc não là gì?Một cục máu đông di chuyển (khối thuyên tắc) hoặc vật khác hình thànhngoài não, thường ở tim, cũng có thể gây ra đột quỵ do thiếu máu não cụcbộ. Đây gọi là thuyên tắc não. Cục máu đông di chuyển nhờ dòng máu chảycho đến khi nó mắc lại ở một động mạch dẫn đến não hoặc trong não, làmtắc nghẽn dòng máu.Nguyên nhân phổ biến nhất của những khối thuyên tắc này là các cục máuđông hình thành trong lúc rung tâm nhĩ (AF). AF là loại rối loạn ở 2,2 triệungười Mỹ. Nó gây ra 15-20% các ca đột quỵ. Trong lúc rung tâm nhĩ, haibuồng nhỏ phía trên của tim (tâm nhĩ) rung lên như một bát thạch thay vìđập mạnh và hiệu quả.Một lượng máu không được bơm hoàn toàn ra khỏi tâm nhĩ khi tim đập, nênmáu đọng lại và có thể vón cục. Khi cục máu đông đi vào vòng tuần hoàn vàmắc lại ở một động mạch hẹp của não, cơn đột quỵ xảy ra. Đây gọi là độtquỵ do nhồi máu não do thuyên tắc mạch máu tim, hoặc một loại đột quỵxảy ra do vấn đề ở tim.Đột quỵ do xuất huyết là gì?Có hai loại xuất huyết não, xuất huyết dưới màng nhện và xuất huyết trongnão bộ. Chứng xuất huyết dưới màng nhện xảy ra khi một mạch máu trên vỏnão đứt và chảy máu vào không gian giữa não và hộp sọ (nhưng lại khôngchảy vào não).Một cơn xuất huyết não xảy ra khi một động mạch bệnh lý (thường là mộtđộng mạch rất nhỏ) trong não bị vỡ, làm máu tràn ra mô xung quanh.Chứng xuất huyết (hoặc chảy máu) từ một động mạch trong não có thể bịgây ra do việc vỡ một mạch máu nhỏ hoặc bục chỗ phình mạch. Phình mạchlà những túi đầy máu phình ra từ những điểm yếu trên thành động mạch.Chúng thường do huyết áp cao gây ra hoặc làm nặng hơn. Phình mạchkhông phải luôn nguy hiểm, nhưng nếu một trong số đó vỡ ra trong não,chúng gây ra đột quỵ do xuất huyết.Khi xảy ra xuất huyết trong não bộ, việc mất lượng máu cung cấp liên tục sẽcó nghĩa là một số tế bào não không thể hoạt động được nữa. Máu tích tụ từđộng mạch vỡ cũng có thể gây áp lực lên mô não xung quanh và can thiệpvào cách thức hoạt động của não. Những triệu chứng nghiêm trọng hoặc nhẹcó thể sinh ra, tùy theo áp suất cao hay thấp.Lượng máu chảy quyết định tính nghiêm trọng của ca xuất huyết trong nãobộ. Trong nhiều trường hợp, người bị xuất huyết trong não bộ tử vong dotăng áp suất trong não. Nhưng những người còn sống có xu hướng phục hồinhanh hơn nhiều những người bị đột quỵ do cục máu đông. Đó là vì khimạch máu bị nghẽn, một phần của não bị hoại tử – và não không tự sản sinh,nói cách khác, các tế bào não không thể thay thế được. Nhưng khi một mạchmáu trong não bị vỡ, áp suất từ máu sẽ nén một phần não. Nếu người đósống sót, áp suất đó sẽ dần biến mất. Sau đó não có thể hồi lại một số chứcnăng ban đầu. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguyên nhân gây ra đột quỵNguyên nhân gây ra đột quỵĐột quỵ là một bệnh ảnh hưởng đến các mạch máu cung cấp máu chonão.Cơn đột quỵ xuất hiện khi một mạch máu đưa ôxy và chất dinh dưỡngtới não bị vỡ (đột quỵ loại xuất huyết) hoặc bị tắc do cục máu đông hoặc docác khối khác nào đó (đột quỵ do thiếu máu não cục bộ).Khi xảy ra đứt gãy hoặc tắc nghẽn, các phần trong não không được nhận đủlượng máu và ôxy cần thiết. Không có ôxy, các tế bào thần kinh trong khuvực bị ảnh hưởng của não không thể làm việc bình thường, và hoại tử trongvòng vài phút (thông thường từ 3 đến 4 phút).Và khi các tế bào thần kinh không hoạt động, phần cơ thể do các tế bào đóđiều khiển cũng không thể hoạt động. Các tác động phá hủy của cơn đột quỵnghiêm trọng thường kéo dài vĩnh viễn vì những tế bào não đã chết khôngthể thay thế được.Có hai loại đột quỵ chính: đột quỵ do thiếu máu não cục bộ (do khối đôngtrong mạch máu gây ra) và đột quỵ do xuất huyết (do chảy máu gây ra).Đột quỵ loại xuất huyết có nguy cơ tử vong cao hơn nhiều so với đột quỵ dotắc nghẽn.Đột quỵ do thiếu máu não cục bộ là gì?Đột quỵ do thiếu máu não cục bộ là loại phổ biến nhất. Nó chiếm khoảng87% các ca đột quỵ. Nó xảy ra khi một cục máu đông (huyết khối) hìnhthành và ngăn cản dòng máu chảy vào một động mạch đưa máu tới một phầncủa não. Các cục máu đông thường hình thành trong động mạch bị phá hủydo tích tụ chất béo, gọi là xơ cứng thành động mạch.Khi cục máu đông hình thành trong một động mạch của não, nó được gọi làđột quỵ do nghẽn huyết khối. Loại này thường xảy ra vào đêm hoặc lúc sángsớm. Một đặc điểm phân biệt nữa là nó thường được báo hiệu trước bằngcơn thiếu máu thoáng qua. Đây được gọi là TIA hoặc “đột quỵ có cảnh báo”.TIA cũng có các triệu chứng giống như đột quỵ nhưng chỉ kéo dài vài phút;các triệu chứng của đột quỵ diễn ra lâu hơn nhiều và thường là thường trực.Nếu ai đó bị TIA, họ cần được chăm sóc khẩn cấp ngay lập tức.Thuyên tắc não là gì?Một cục máu đông di chuyển (khối thuyên tắc) hoặc vật khác hình thànhngoài não, thường ở tim, cũng có thể gây ra đột quỵ do thiếu máu não cụcbộ. Đây gọi là thuyên tắc não. Cục máu đông di chuyển nhờ dòng máu chảycho đến khi nó mắc lại ở một động mạch dẫn đến não hoặc trong não, làmtắc nghẽn dòng máu.Nguyên nhân phổ biến nhất của những khối thuyên tắc này là các cục máuđông hình thành trong lúc rung tâm nhĩ (AF). AF là loại rối loạn ở 2,2 triệungười Mỹ. Nó gây ra 15-20% các ca đột quỵ. Trong lúc rung tâm nhĩ, haibuồng nhỏ phía trên của tim (tâm nhĩ) rung lên như một bát thạch thay vìđập mạnh và hiệu quả.Một lượng máu không được bơm hoàn toàn ra khỏi tâm nhĩ khi tim đập, nênmáu đọng lại và có thể vón cục. Khi cục máu đông đi vào vòng tuần hoàn vàmắc lại ở một động mạch hẹp của não, cơn đột quỵ xảy ra. Đây gọi là độtquỵ do nhồi máu não do thuyên tắc mạch máu tim, hoặc một loại đột quỵxảy ra do vấn đề ở tim.Đột quỵ do xuất huyết là gì?Có hai loại xuất huyết não, xuất huyết dưới màng nhện và xuất huyết trongnão bộ. Chứng xuất huyết dưới màng nhện xảy ra khi một mạch máu trên vỏnão đứt và chảy máu vào không gian giữa não và hộp sọ (nhưng lại khôngchảy vào não).Một cơn xuất huyết não xảy ra khi một động mạch bệnh lý (thường là mộtđộng mạch rất nhỏ) trong não bị vỡ, làm máu tràn ra mô xung quanh.Chứng xuất huyết (hoặc chảy máu) từ một động mạch trong não có thể bịgây ra do việc vỡ một mạch máu nhỏ hoặc bục chỗ phình mạch. Phình mạchlà những túi đầy máu phình ra từ những điểm yếu trên thành động mạch.Chúng thường do huyết áp cao gây ra hoặc làm nặng hơn. Phình mạchkhông phải luôn nguy hiểm, nhưng nếu một trong số đó vỡ ra trong não,chúng gây ra đột quỵ do xuất huyết.Khi xảy ra xuất huyết trong não bộ, việc mất lượng máu cung cấp liên tục sẽcó nghĩa là một số tế bào não không thể hoạt động được nữa. Máu tích tụ từđộng mạch vỡ cũng có thể gây áp lực lên mô não xung quanh và can thiệpvào cách thức hoạt động của não. Những triệu chứng nghiêm trọng hoặc nhẹcó thể sinh ra, tùy theo áp suất cao hay thấp.Lượng máu chảy quyết định tính nghiêm trọng của ca xuất huyết trong nãobộ. Trong nhiều trường hợp, người bị xuất huyết trong não bộ tử vong dotăng áp suất trong não. Nhưng những người còn sống có xu hướng phục hồinhanh hơn nhiều những người bị đột quỵ do cục máu đông. Đó là vì khimạch máu bị nghẽn, một phần của não bị hoại tử – và não không tự sản sinh,nói cách khác, các tế bào não không thể thay thế được. Nhưng khi một mạchmáu trong não bị vỡ, áp suất từ máu sẽ nén một phần não. Nếu người đósống sót, áp suất đó sẽ dần biến mất. Sau đó não có thể hồi lại một số chứcnăng ban đầu. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nguyên nhân gây đột quỵ tìm hiểu về đột quỵ sức khỏe người cao tuổi kiến thức y học y học cơ sở kiến thức y tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tỷ lệ thiếu cơ và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi đái tháo đường típ 2
6 trang 265 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 232 0 0 -
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 181 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 167 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 113 0 0 -
4 trang 107 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 107 0 0 -
4 trang 97 0 0
-
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 76 0 0