Nguyên tắc ' Bình đẳng giữa Nhà nước và công dân' trong nhà nước pháp quyền về việc giải quyết bồi thường thiệt hại: vận dụng vào thực tiễn pháp lý ở Việt Nam
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 210.90 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
1. Nguyên tắc bình đẳng giữa nhà nước và công dân trong nhà nước pháp quyền Một trong những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền là công dân và Nhà nước phải được đối xử bình đẳng trong quan hệ pháp luật dân sự. Theo đó, khi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức bị xâm phạm thì đối tượng có hành vi xâm phạm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguyên tắc " Bình đẳng giữa Nhà nước và công dân" trong nhà nước pháp quyền về việc giải quyết bồi thường thiệt hại: vận dụng vào thực tiễn pháp lý ở Việt Nam Nguyên tắc ' Bình đẳng giữa Nhà nước và công dân' trong nhà nước pháp quyền về việc giải quyết bồi thường thiệt hại: vận dụng vào thực tiễn pháp lý ở Việt Nam 1. Nguyên tắc bình đẳng giữa nhà nước và công dân trong nhà nước pháp quyền Một trong những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền là công dân và Nhà nước phải được đối xử bình đẳng trong quan hệ pháp luật dân sự. Theo đó, khi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức bị xâm phạm thì đối tượng có hành vi xâm phạm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với công dân, cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau, được ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng Hiến pháp và pháp luật. Trước hết, nó thể hiện thái độ của nhà nước đối với công dân. Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc bảo vệ các quyền của công dân. Điều 29, Hiến pháp năm 1959, quy định: “Người bị thiệt hại về hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường”. Hoặc như tại Điều 74 của Hiến pháp quy định, “mọi hoạt động nhà nước nếu gây thiệt hại cho công dân, tổ chức đều phát sinh trách nhiệm bồi thường”. Việc bồi thường hậu quả do lỗi của người thi hành công vụ hiện đang được quy định rải rác tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, như Bộ luật Dân sự, Luật Hành chính, Pháp lệnh công chức, Nghị quyết 388 của Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) về bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Bản chất của “bồi thường” hay “đền bù” đều có nghĩa là Nhà nước bù đắp lại một phần hay toàn bộ thiệt hại của người dân. Trong tiếng Việt, tách bạch hai thuật ngữ này có thể phân biệt nội hàm của khái niệm. Cách thức giải thích trong dự thảo có thể dẫn đến những cách hiểu không đồng nhất, nh ưng trong thực tế, việc Nhà nước thể hiện trách nhiệm ngay cả trong trường hợp không có lỗi cũng được thực hiện ở Việt Nam. Đó là khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ công ích cũng đền bù cho dân. Nếu thu hồi đất để giao cho một doanh nghiệp khác thì thực hiện bồi thường. Song thuật ngữ “bồi thường” mang tính bình đẳng hơn, nghĩa là người gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Còn “đền bù” thể hiện tính chủ động của Nhà nước, mặc dù vì lợi ích công, nhưng gây thiệt hại nên vẫn thực hiện đền bù một phần. Không những thế, Nhà nước còn đền bù cho người dân kể cả trong trường hợp rủi ro, như dịch cúm gà chẳng hạn. Nhà nước yêu cầu mọi người tiêu huỷ, đó là một quyết định đúng, nhưng nó gây thiệt hại cho dân, nên Nhà nước vẫn đền bù. Như vậy, Nhà nước quản lý công dân bằng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân chính là thể hiện quyền của nhà nước. Song Nhà nước cũng phải có nghĩa vụ đối với công dân, thực hiện pháp luật đảm bảo những điều kiện cho công dân hưởng quyền. Thứ hai, thể hiện ở thái độ của công dân đối với nhà nước. Công dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền được quy định trong pháp luật. Đồng thời, công dân lại là đối tượng tác động của quyền lực nhà nước, thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, bất kể chủ thể nào trong mối quan hệ pháp luật. Nhưng để xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì người yêu cầu bồi thường phải chứng minh được thiệt hại và mối quan hệ nhân quả trong vấn đề thiệt hại đó, chủ thể gây thiệt hại là bản thân cơ quan, công chức Nhà nước đã thực hiện hành vi sai trái. Tức là phải chứng minh cơ quan, công chức Nhà nước đã có hành vi lạm dụng công quyền hoặc có nghĩa vụ cẩn trọng trong hành động với người yêu cầu bồi thường nhưng đã vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng đó dẫn đến gây thiệt hại cho người này. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì để xác lập trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì trước hết phải xác lập được trách nhiệm bồi thường của chính bản thân cơ quan, công chức đã có hành vi vi phạm. 2. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nhà nước và công dân trong nhà nước pháp quyền trong việc bồi thường thiệt hại Các quy định về bồi thường thiệt hại do công chức nhà nước gây ra đã được ban hành từ khi Bộ luật Dân sự 1995 ra đời. Tuy nhiên, các quy định này gần như không thể thực hiện được do thiếu các quy định cụ thể về một cơ chế xác định trách nhiệm bồi thường, cũng như các thủ tục để người dân khiếu nại, khởi kiện đòi bồi thường. Việc bồi thường thiệt hại do công chức nhà nước gây ra chỉ được hiện thực hóa một phần khi có Nghị quyết 388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ban hành năm 2004. Tuy nhiên, Nghị quyết 388 chỉ giới hạn việc bồi thường trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử oan sai của các cơ quan tiến hành tố tụnh hình sự. Vì thế, đến nay vẫn chưa có một cơ chế để tất cả các công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm trước công dân đối với thiệt hại họ đã gây ra trong quá trình thực thi công vụ.Theo quy định, việc bồi thường diễn ra trong tất cả hoạt động của cơ quan nhà nước (lập pháp, tư pháp, hành pháp). Nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành luật lại chỉ giới hạn trong lĩnh vực hành chính và tố tụng hình sự. Chỉ đến khi Nghị quyết 388 của Quốc hội ra đời, trách nhiệm bồi th ường nhà nước mới bắt đầu thực hiện, song chỉ áp dụng với các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự, chưa có sự điều chỉnh với trường hợp làm sai. Phạm vi của Nghị quyết 388 chỉ hạn chế trong lĩnh vực tố tụng hình sự là quá hẹp, trong khi diện bị oan ở nhiều lĩnh vực khác không được bồi thường là nhà nước chưa “sòng phẳng”. Ví dụ bị từ chối cấp giấy đăng ký kinh doanh trái luật, gây thiệt hại thì hiện nay người bị thiệt hại không được bồi thường vì chưa có cơ chế. Những quy định về bồi thường nhà nước của nước ta đã có từ lâu. Tuy nhiên, các quy định này lại phân tán ở nhiều văn bản khác nhau, thiếu tính hệ thống và hiệu lực thấp. Các loại thiệt hại được Nhà nước bồi thường được quy định còn chung chung, chưa cụ thể nên khó áp dụng. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguyên tắc " Bình đẳng giữa Nhà nước và công dân" trong nhà nước pháp quyền về việc giải quyết bồi thường thiệt hại: vận dụng vào thực tiễn pháp lý ở Việt Nam Nguyên tắc ' Bình đẳng giữa Nhà nước và công dân' trong nhà nước pháp quyền về việc giải quyết bồi thường thiệt hại: vận dụng vào thực tiễn pháp lý ở Việt Nam 1. Nguyên tắc bình đẳng giữa nhà nước và công dân trong nhà nước pháp quyền Một trong những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền là công dân và Nhà nước phải được đối xử bình đẳng trong quan hệ pháp luật dân sự. Theo đó, khi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức bị xâm phạm thì đối tượng có hành vi xâm phạm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với công dân, cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau, được ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng Hiến pháp và pháp luật. Trước hết, nó thể hiện thái độ của nhà nước đối với công dân. Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc bảo vệ các quyền của công dân. Điều 29, Hiến pháp năm 1959, quy định: “Người bị thiệt hại về hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường”. Hoặc như tại Điều 74 của Hiến pháp quy định, “mọi hoạt động nhà nước nếu gây thiệt hại cho công dân, tổ chức đều phát sinh trách nhiệm bồi thường”. Việc bồi thường hậu quả do lỗi của người thi hành công vụ hiện đang được quy định rải rác tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, như Bộ luật Dân sự, Luật Hành chính, Pháp lệnh công chức, Nghị quyết 388 của Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) về bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Bản chất của “bồi thường” hay “đền bù” đều có nghĩa là Nhà nước bù đắp lại một phần hay toàn bộ thiệt hại của người dân. Trong tiếng Việt, tách bạch hai thuật ngữ này có thể phân biệt nội hàm của khái niệm. Cách thức giải thích trong dự thảo có thể dẫn đến những cách hiểu không đồng nhất, nh ưng trong thực tế, việc Nhà nước thể hiện trách nhiệm ngay cả trong trường hợp không có lỗi cũng được thực hiện ở Việt Nam. Đó là khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ công ích cũng đền bù cho dân. Nếu thu hồi đất để giao cho một doanh nghiệp khác thì thực hiện bồi thường. Song thuật ngữ “bồi thường” mang tính bình đẳng hơn, nghĩa là người gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Còn “đền bù” thể hiện tính chủ động của Nhà nước, mặc dù vì lợi ích công, nhưng gây thiệt hại nên vẫn thực hiện đền bù một phần. Không những thế, Nhà nước còn đền bù cho người dân kể cả trong trường hợp rủi ro, như dịch cúm gà chẳng hạn. Nhà nước yêu cầu mọi người tiêu huỷ, đó là một quyết định đúng, nhưng nó gây thiệt hại cho dân, nên Nhà nước vẫn đền bù. Như vậy, Nhà nước quản lý công dân bằng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân chính là thể hiện quyền của nhà nước. Song Nhà nước cũng phải có nghĩa vụ đối với công dân, thực hiện pháp luật đảm bảo những điều kiện cho công dân hưởng quyền. Thứ hai, thể hiện ở thái độ của công dân đối với nhà nước. Công dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền được quy định trong pháp luật. Đồng thời, công dân lại là đối tượng tác động của quyền lực nhà nước, thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, bất kể chủ thể nào trong mối quan hệ pháp luật. Nhưng để xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì người yêu cầu bồi thường phải chứng minh được thiệt hại và mối quan hệ nhân quả trong vấn đề thiệt hại đó, chủ thể gây thiệt hại là bản thân cơ quan, công chức Nhà nước đã thực hiện hành vi sai trái. Tức là phải chứng minh cơ quan, công chức Nhà nước đã có hành vi lạm dụng công quyền hoặc có nghĩa vụ cẩn trọng trong hành động với người yêu cầu bồi thường nhưng đã vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng đó dẫn đến gây thiệt hại cho người này. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì để xác lập trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì trước hết phải xác lập được trách nhiệm bồi thường của chính bản thân cơ quan, công chức đã có hành vi vi phạm. 2. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nhà nước và công dân trong nhà nước pháp quyền trong việc bồi thường thiệt hại Các quy định về bồi thường thiệt hại do công chức nhà nước gây ra đã được ban hành từ khi Bộ luật Dân sự 1995 ra đời. Tuy nhiên, các quy định này gần như không thể thực hiện được do thiếu các quy định cụ thể về một cơ chế xác định trách nhiệm bồi thường, cũng như các thủ tục để người dân khiếu nại, khởi kiện đòi bồi thường. Việc bồi thường thiệt hại do công chức nhà nước gây ra chỉ được hiện thực hóa một phần khi có Nghị quyết 388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ban hành năm 2004. Tuy nhiên, Nghị quyết 388 chỉ giới hạn việc bồi thường trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử oan sai của các cơ quan tiến hành tố tụnh hình sự. Vì thế, đến nay vẫn chưa có một cơ chế để tất cả các công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm trước công dân đối với thiệt hại họ đã gây ra trong quá trình thực thi công vụ.Theo quy định, việc bồi thường diễn ra trong tất cả hoạt động của cơ quan nhà nước (lập pháp, tư pháp, hành pháp). Nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành luật lại chỉ giới hạn trong lĩnh vực hành chính và tố tụng hình sự. Chỉ đến khi Nghị quyết 388 của Quốc hội ra đời, trách nhiệm bồi th ường nhà nước mới bắt đầu thực hiện, song chỉ áp dụng với các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự, chưa có sự điều chỉnh với trường hợp làm sai. Phạm vi của Nghị quyết 388 chỉ hạn chế trong lĩnh vực tố tụng hình sự là quá hẹp, trong khi diện bị oan ở nhiều lĩnh vực khác không được bồi thường là nhà nước chưa “sòng phẳng”. Ví dụ bị từ chối cấp giấy đăng ký kinh doanh trái luật, gây thiệt hại thì hiện nay người bị thiệt hại không được bồi thường vì chưa có cơ chế. Những quy định về bồi thường nhà nước của nước ta đã có từ lâu. Tuy nhiên, các quy định này lại phân tán ở nhiều văn bản khác nhau, thiếu tính hệ thống và hiệu lực thấp. Các loại thiệt hại được Nhà nước bồi thường được quy định còn chung chung, chưa cụ thể nên khó áp dụng. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tư tưởng Chính trị Lý luận pháp luật nhà nước pháp quyền chủ nghĩa xã hội quyền lực nhà nướcGợi ý tài liệu liên quan:
-
112 trang 292 0 0
-
Bài thuyết trình: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về Chủ nghĩa Xã hội
42 trang 221 0 0 -
Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
10 trang 206 0 0 -
6 trang 178 0 0
-
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam
14 trang 176 0 0 -
Đề tài: CÔNG BẰNG XÃ HỘI, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐOÀN KẾT XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
18 trang 148 0 0 -
Tiểu luận: Lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
21 trang 141 0 0 -
57 trang 138 0 0
-
214 trang 121 0 0
-
11 trang 114 0 0