Danh mục

Nhà Hậu Lê Thời kỳ phân tranh (1533 – 1788) 3

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 213.22 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhà Hậu Lê Thời kỳ phân tranh (1533 – 1788) 3*LÊ Ý TÔNG (1735 – 1740) Niên hiệu: Vĩnh HữuÝ Tông huý là Duy Thìn, con vua Dụ Tông, Trịnh Giang bỏ con vua Thuần Tông mà lập ngài. Năm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh bắt ngài phải nhường ngôi cho con vua Thuần Tông, rồi làm Thái thượng hoàng, mất năm Kỷ Mão (1759) thọ 41 tuổi TRỊNH Trịnh Giang bị bỏ năm Canh Thân (1740), làm Thái thượng vương. Em là Trịnh Doanh lên thay. MINH ĐÔ VƯƠNG TRỊNH DOANH (1740 – 1767) Miếu hiệu là: Nghị Tổ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhà Hậu Lê Thời kỳ phân tranh (1533 – 1788) 3 Nhà Hậu Lê Thời kỳ phân tranh (1533 – 1788) 3*LÊ Ý TÔNG (1735 – 1740)Niên hiệu: Vĩnh HữuÝ Tông huý là Duy Thìn, con vua Dụ Tông, Trịnh Giang bỏ con vua Thuần Tôngmà lập ngài.Năm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh bắt ngài phải nhường ngôi cho con vuaThuần Tông, rồi làm Thái thượng hoàng, mất năm Kỷ Mão (1759) thọ 41 tuổiTRỊNHTrịnh Giang bị bỏ năm Canh Thân (1740), làm Thái thượng vương. Em là TrịnhDoanh lên thay.MINH ĐÔ VƯƠNG TRỊNH DOANH (1740 – 1767)Miếu hiệu là: Nghị Tổ Ân Vương.Trịnh Doanh đánh dẹp giặc giã trong nước.NGUYỄNNguyễn Phúc Trú mất năm Mậu Ngọ (1738), thọ 43 tuổi.VÕ VƯƠNG NGUYỄN PHÚC KHOÁT (1738 – 1755).Truy tôn là Thế Tông Hiếu Võ Hoàng đế.Ông Nguyễn Phúc Khoát đánh Chân Lạp mở thêm đất ở Gia Định*LÊ HIỂN TÔNG (1740 – 1786)Niên hiệu: Cảnh HưngHiển Tông huý là Duy Diêu, con vua Thuần Tông. Làm vua được 46 năm, thọ 70tuổiTRỊNHTrịnh Doanh mất năm Đinh Hợi (1767)TĨNH ĐÔ VƯƠNG TRỊNH SÂM (1767 – 1782)Miếu hiệu là: Thánh tổ Thịnh VươngTrịnh Sâm dẹp yên giặc ở xứ Bắc. Lấy đất Thuận Hoá và đất Quảng Nam của chúaNguyễn. Nhưng vì say đắm nàng Đặng Thị Huệ, mới bỏ con trưởng lập con thứ,làm thành cái mối biến loạn. Mất năm Nhâm Dần (1782)TÔN ĐÔ VƯƠNG TRỊNH CÁN.Làm chúa được 2 tháng bị quân Tam Phủ bỏ đi, lập anh là Trịnh Khải lên làmchúa.ĐOAN NAM VƯƠNG TRỊNH KHẢI (1783 – 1786)Bị Tây Sơn bắt được, phải tự tử năm Bính Ngọ (1786).NGUYỄNVõ Vương Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu năm Giáp Tí (1744), và mất nămẤt Dậu (1765).ĐỊNH VƯƠNG NGUYỄN PHÚC THUẦN (1765 – 1777)Truy tôn là Duệ Tông Hiếu Định Hoàng đế.Đời ngài làm chúa bị Trương Phúc Loan chuyên quyền. Quân Tây Sơn nổi lênđánh phía Nam, quân họ Trịnh đánh phía Bắc.Sau quân chúa Trịnh vào lấy mất Phú Xuân, Định Vương chạy vào Gia Định bịtướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Huệ giết mất. Ngài thọ 24 tuổi.NGUYỄN VƯƠNG NGUYỄN PHÚC ÁNH tức là vua Thế tổ Cao Hoàng đế nhàNguyễn khởi binh ở Gia Định.*LÊ MẪN ĐẾ (1787 – 1788)Niên hiệu: Chiêu ThốngMẫn Đế là cháu đích tôn vua Hiển Tông, ngài bị quân Tây Sơn đánh thua chạysang Tàu cầu cứu, sau đánh thua lại trở sang Tàu, bị quan Tàu làm nhục, rồi mất ởYên Kinh.TRỊNHÁN ĐÔ VƯƠNG TRỊNH BỒNG.Khi quân Tây Sơn về Nam rồi , đảng họ Trịnh lại lập Trịnh Bồng lên làm chúa.Vua gọi Nguyễn Hữu Chỉnh ra đánh họ Trịnh. Trịnh Bồng bỏ đi tu.NGUYỄNNguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh khôi phục đất Gia ĐịnhNhà Lê Trung hưng: Đãi ngộ trọng hậu các nhàkhoa bảngNăm 1533, Lê Trang Tông lên ngôi, lập nên triều đại nhà Lê Trung hưng ở ThanhHóa. Để triều nghi ngày càng được củng cố bền vững cần có nhân tài giúp nước,năm Thuận Bình thứ 4 (1554), vua cho mở khoa thi chế khoa (khoa thi đặc biệt đểchọn người tài giỏi).Năm 1558, vua Lê Anh Tông lập trường thi Hương ở xã Đa Lộc, huyện Yên Định,tỉnh Thanh Hóa.Năm 1565 và 1577, nhà Lê Trung hưng vẫn mở chế khoa. Năm 1580, bắt đầu đặtkhoa thi Hội. Từ đây nhà Lê Trung hưng có chiếu định 3 năm một khoa thi nhưngrồi khoa thi năm 1586 lại không thực hiện được. Còn các năm 1583, 1589, 1592vẫn mở thi Hội.Cho đến năm 1592, các khoa thi Hương, thi Hội kể cả những khoa chế khoa đều tổchức ở sách Vạn Lại thuộc tổng An Trường huyện Thụy Nguyên, phủ ThiệuThiên, tỉnh Thanh Hóa. Các khoa thi được ban học vị như thường lệ nhưng khôngtổ chức thi Đình.Từ năm Ất Mùi, niên hiệu Quang Hưng năm thứ 18 triều Lê Trung hưng bắt đầumở khoa thi ở Thăng Long và đặt chế độ thi Đình như thường lệ. Cũng từ đây cácquy chế học tập, khảo hạch, cách ra đề thi cũng được nhiều lần thay đổi cho phùhợp. Việc chọn nhân tài ngày càng có hiệu quả.Nhưng khi triều đình đã ổn định, các quy chế thi cử lâu ngày bị quan trường chủquan lơi lỏng. Do việc mùa màng thất bát, công cuộc dụng binh tốn kém, sĩ tử dựthi ngày càng đông, triều đình đặt ra chế độ thu tiền thông kinh, người dự thiHương phải nộp 3 quan tiền thì không phải khảo hạch.Vì vậy, người ta đua nhau nộp tiền để đi thi cầu may. Trong tr ường thi xảy ra tìnhtrạng nhờ người đi thi hộ hoặc mang sách vào trường để chép. Có khoa thi sĩ tửchen nhau, đạp lên nhau chết người ngoài cổng. Dân gian có câu mỉa mai sinh đồ3 quan là như vậy. Song, đó cũng chỉ là một thời và những người học hành kémcỏi cũng không qua nổi các kỳ đại khoa.Việc đãi ngộ các nhà khoa bảng dưới triều Lê Trung hưng rất trọng hậu. Sách kiếnvăn tiểu lục của Lê Quý Đôn (NXB Sử học 1962), viết: 1/Ban cho áo mũ cân đaitriều phục, cho vinh quy bái tổ có cờ quạt, nghi trượng, nhạc nhã đón rước. 2/Dânlàng phải dựng phủ đệ cho các tiến sĩ. 3/Những người đỗ tam khôi hoặc ứng thíchế khoa trúng cách được bổ vào Viện Hàn lâm, những người đỗ đồng tiến sĩ đượcbổ các chức quan khoa đạo, không phải đi làm quan ở các phủ, huyện bên ngoài.4/Người đỗ trẻ tuổi nhất được bổ chức Hiệu thảo. 5/Người nào bổ đi ngoài trấn thìđược vào hai ty Thừa chính sứ và Hi ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: