Danh mục

Nhặt sạch rác thải: đo lường hiệu quả dịch vụ đô thị ở các thành phố Hoa Kỳ

Số trang: 22      Loại file: pdf      Dung lượng: 337.04 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (22 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Adrian Moore Reason Public Policy Institute adrianm@rppi.org James Nolan Phòng Kinh tế nông nghiệp Đại học Saskatchewan 51 Campus Dr. Saskatoon, SK. Canada S7N 5A8 James.nolan@usask.ca Geoffrey Segal Reason Public Policy Institute gsegal@rppi.org Tháng 9-2003 Tóm tắt: Có một khối lượng tư liệu nghiên cứu đáng kể mô tả kết quả hoạt động của các dịch vụ đô thị, thường sử dụng những đại lượng đo lường tính hiệu quả một cách không hoàn hảo hay chỉ có tính chất cục bộ. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhặt sạch rác thải: đo lường hiệu quả dịch vụ đô thị ở các thành phố Hoa Kỳ Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Nhặt sạch rác thải: Niên khoá 2005-2006 Bài đọc đo lường hiệu quả dịch vụ đô thị ở các thành phố Hoa Kỳ NHẶT SẠCH RÁC THẢI: ĐO LƯỜNG HIỆU QUẢ DỊCH VỤ ĐÔ THỊ Ở CÁC THÀNH PHỐ HOA KỲ Adrian Moore Reason Public Policy Institute adrianm@rppi.org James Nolan Phòng Kinh tế nông nghiệp Đại học Saskatchewan 51 Campus Dr. Saskatoon, SK. Canada S7N 5A8 James.nolan@usask.ca Geoffrey Segal Reason Public Policy Institute gsegal@rppi.org Tháng 9-2003 Tóm tắt: Có một khối lượng tư liệu nghiên cứu đáng kể mô tả kết quả hoạt động của các dịch vụ đô thị, thường sử dụng những đại lượng đo lường tính hiệu quả một cách không hoàn hảo hay chỉ có tính chất cục bộ. Phương pháp phân tích bao bọc số liệu (DEA) được đề xuất như một công cụ hữu hiệu để xác định hiệu quả tương đối của việc cung ứng dịch vụ công. Tài liệu này sử dụng DEA để đo lường hiệu quả tương đối của 11 dịch vụ đô thị tại 46 thành phố trong số những thành phố lớn nhất Hoa Kỳ trong một khoảng thời gian 6 năm. Thêm vào đó, thông tin này được tiếp tục sử dụng để khám phá những điểm khác biệt về tính hiệu quả giữa các thành phố và dịch vụ, và được đưa vào phân tích thống kê để tìm hiểu những yếu tố có thể giải thích sự khác biệt về hiệu quả giữa các thành phố. Cuối cùng, chúng tôi thảo luận việc sử dụng các số đo kết quả hoạt động của các chính quyền đô thị, và những vấn đề trong việc thu thập số liệu đô thị làm chuẩn so sánh. Phân loại JEL: H7, R5. Từ ngữ then chốt: Hiệu quả, đo lường kết quả hoạt động, quản lý đô thị, ngân sách đô thị. Ngân hàng Thế giới 1 Biên dịch: Kim Chi Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Nhặt sạch rác thải: Bài đọc đo lường hiệu quả dịch vụ đô thị ở các thành phố Hoa Kỳ 1. Dẫn nhập Người tiêu dùng hiện đại thường dựa vào thông tin khách quan của bên thứ ba về một sản phẩm hay dịch vụ để xác định xem có nên mua sản phẩm hay dịch vụ đó hay không. Nhu cầu về những thông tin như thế đã dẫn đến việc phát hành một vài loại ấn bản (ví dụ như Consumer Reports) chuyên cung ứng thông tin về sản phẩm đối với tất cả các loại hàng hoá. Tương tự như vậy, người dân thường tìm đến những số tay hướng dẫn hay ấn bản thông tin, trong đó đánh giá mức độ thực hiện dịch vụ công của chính phủ như thế nào. Ví dụ, tạp chí Money xếp hạng những thành phố tốt nhất đối với những người về hưu,1 trong khi tạp chí Fortune xếp hạng những thành phố tốt nhất để làm kinh doanh.2 Cũng có nhiều nghiên cứu tổng quát khác về kết quả hoạt động của các thành phố. Tạp chí Governing xếp hạng các thành phố về chất lượng quản lý, trong khi Hội nghị Thị trưởng Hoa Kỳ xếp hạng “khả năng sống” của các thành phố.3 Đây chỉ mới là một vài ví dụ trong nhiều số tay hướng dẫn và các ấn bản thông tin được sử dụng để đánh giá đặc điểm của những thành phố khác nhau.4 Các nghiên cứu về nhà ở và địa điểm doanh nghiệp cũng không quên thực hiện những so sánh như thế. Tiếp theo việc triển khai lý thuyết chọn lựa địa điểm của Tiebout (1956) dựa trên sở thích về các khía cạnh khác nhau trong quản trị địa phương, người ta thấy xuất hiện một nguồn tư liệu nghiên cứu phong phú xem xét lý thuyết về cách thức người dân so sánh và chọn lựa giữa những khu vực hành chính cạnh tranh nhau như thế nào (Dowding và John, 1996; Oakerson, 1987). Các công trình nghiên cứu thực nghiệm tiếp theo cho thấy mức độ quan trọng của nguồn thông tin tốt để những lý thuyết này có tác dụng trên thực tế đối với người dân và doanh nghiệp (Lowery, 2000; Lyons và những người khác 1992; Teske và những người khác 1993). Những nghiên cứu sau này đã khởi động một phong trào hướng tới việc đo lường hoạt động và quản trị tốt hơn trong lĩnh vực quản lý đô thị. Các nhóm khác nhau như Hiệp hội viên chức tài chính chính phủ (Leithe, 1997), Uỷ ban tiêu chuẩn hạch toán chính phủ (GASB, 1994), và Hiệp hội quản lý hạt/ thành phố quốc tế (Hatry và những người khác 1992) từ lâu đã tìm cách giúp chính quyền đô thị đo lường kết quả hoạt động của các dịch vụ đô thị. Các số đo về kết quả dịch vụ này cho phép các quan chức thành phố và công dân so sánh và đánh giá sự kết nối giữa các phương án chính sách và các kết quả. Nếu không đo lường những kết quả như vậy, người dân không thể phân biệt giữa những trường hợp thành công và thất bại (Osborne và Gaebler, 1993). Cụ thể hơn, Wood (1998) phát biểu trong sách hướng dẫn của ông về tài chính chính quyền địa phương rằng việc đo lường kết quả hoạt động của chính phủ giúp chúng ta có thể: 1. Đánh giá xem một chương trình đang có tác dụng như thế nào; 2. Có được một phương pháp so sánh những dịch vụ được hợp đồng với bên ngoài và những dịch vụ tự thực hiện; và 1 www.money.com/money/depts/retirement/bpretre/ 2 www.fortune.com/fortune/bestcities/index.html 3 www.usmayors.org/USCM/uscm_projects_services/city_livabi ...

Tài liệu được xem nhiều: