Danh mục

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 122.72 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Căn bệnh này nếu không được điều trị kịp thời sẽ có thể gây biến chứng viêm phổi. Trẻ viêm phổi nếu nhập viện quá muộn sẽ khó được cứu sống cho dù bệnh viện có đủ máy móc hiện đại, thuốc men tốt và bác sĩ giỏi.Trẻ bị nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính (NKHHCT) thường có một trong các triệu chứng: ho, sốt, khó thở, thở nhanh hoặc thở khác thường, đau họng, chảy nước mũi và chảy mủ tai.Trong đó, ho là triệu chứng hay gặp nhất. Thông thường, ho hay kèm theo sốt (cũng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ Nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ Căn bệnh này nếu không được điều trị kịp thời sẽ có thể gây biến chứngviêm phổi. Trẻ viêm phổi nếu nhập viện quá muộn sẽ khó được cứu sống cho dùbệnh viện có đủ máy móc hiện đại, thuốc men tốt và bác sĩ giỏi. Trẻ bị nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính (NKHHCT) thường có mộttrong các triệu chứng: ho, sốt, khó thở, thở nhanh hoặc thở khác thường, đau họng,chảy nước mũi và chảy mủ tai. Trong đó, ho là triệu chứng hay gặp nhất. Thông thường, ho hay kèm theosốt (cũng có nhiều trẻ nhỏ bị viêm phổi nặng nhưng không sốt). Đa số trẻ bị ho,sốt, chảy nước mũi là do cảm cúm hoặc cảm lạnh, bệnh sẽ tự khỏi trong vòng vàingày đến 1 tuần mà không phải dùng kháng sinh. Tuy nhiên, một số trẻ trong nhóm này có thể bị viêm phổi. Khi bị viêmphổi, nếu không chữa trị kịp thời, bệnh sẽ nặng lên rất nhanh và có thể dẫn đến tửvong; còn nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng, bệnh sẽ khỏi hoàn toàn. Một trẻ được coi là viêm phổi khi có ho và thở nhanh, vì khi phổi bị viêm,sự trao đổi oxy ở phổi trở nên khó khăn hơn nên cơ thể rất dễ thiếu oxy. Trẻ phảnứng lại tình trạng này bằng cách tăng nhịp thở lên. Cha mẹ hoặc người chăm sóc có thể dễ dàng đánh giá nhịp thở của trẻbằng cách vén áo để quan sát sự di động của lồng ngực hoặc bụng. Nếu trẻ thởnhanh, sự di động đó sẽ nhanh hơn những ngày trẻ bình thường. Điều quan trọng là phải quan sát lúc trẻ nằm yên hoặc ngủ. Nếu có đồng hồvới kim giây, ta có thể để đồng hồ gần bụng hoặc ngực của trẻ và đếm nhịp thởtrong vòng 1 phút. Một trẻ có tình trạng thở nhanh nếu ta đếm được: - 40 lần/phút trở lên đối với trẻ 1-5 tuổi. - 50 lần/phút trở lên đối với trẻ từ 2 tháng đến 1 tuổi. - 60 lần/phút trở lên đối với trẻ dưới 2 tháng tuổi. Nếu không thể đếm được nhịp thở của trẻ hoặc không thể phân biệt đượctrẻ có thở nhanh hơn ngày thường hay không, bà mẹ có thể vén áo trẻ lên và quansát lồng ngực. Nếu thấy trẻ thở khác thường hoặc khi thở phát ra một tiếng bấtthường nào đó, có thể trẻ đã bị viêm phổi. Co rút lồng ngực cũng là một dấu hiệu của viêm phổi. Để phát hiện triệuchứng này, cần vén áo trẻ lên và nhìn vào phần ranh giới giữa ngực và bụng xemcó dấu hiệu lõm khi trẻ hít vào hay không. Nên bế trẻ nằm ngang trên lòng mẹ hoặc đặt nằm ngang trên giường đểquan sát dễ dàng và chính xác. Hiện tượng này phải thấy thường xuyên ở bất kỳnhịp thở nào của trẻ khi trẻ nằm yên hoặc ngủ mới có giá trị; còn nếu chỉ thấy lúctrẻ quấy khóc hoặc khi cố gắng hít sâu thì không được coi là co rút lồng ngực. Trẻcó co rút lồng ngực là đã bị viêm phổi nặng, cần được đưa đến bệnh viện ngay.

Tài liệu được xem nhiều: