Nhớ công ơn thầy
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 230.51 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Từ khi người Trung Hoa đặt nền đô hộ trên đất nước ta, họ đã nghĩ ngay đến việc cho du nhập nền văn hoá Trung Hoa vào xã hội Việt Nam, trước tiên là để đào tạo lớp quan lại bản xứ để giúp họ trong công việc cai trị. “ Tổ tiên ta bắt đầu học chữ Hán ngay từ buổi đầu đời Bắc thuộc (111 trước Tây lịch), mà có lẽ từ đời Triệu Đà (207-137 trước Tây lịch) nữa, song việc giáo dục bắt đầu có tổ chức thì từ đời Sĩ Nhiếp (187-226)”(1) . ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhớ công ơn thầyNHỚ CÔNG ƠN THẦY Từ khi người Trung Hoa đặt nền đô hộ trên đất nước ta, họ đã nghĩ ngay đến việccho du nhập nền văn hoá Trung Hoa vào xã hội Việt Nam, trước tiên là để đào tạo lớpquan lại bản xứ để giúp họ trong công việc cai trị. “ Tổ tiên ta bắt đầu học chữ Hán ngaytừ buổi đầu đời Bắc thuộc (111 trước Tây lịch), mà có lẽ từ đời Triệu Đà (207-137 trướcTây lịch) nữa, song việc giáo dục bắt đầu có tổ chức thì từ đời Sĩ Nhiếp (187-226)”(1) .Trong hơn 1000 năm bị Trung Hoa đô hộ (111 trước Tây lịch - 938 sau Tây lịch) và trongsuốt cả ngót ngàn năm quốc gia độc lập (939-1918), người Việt ta hoàn toàn học theosách vở của người Tàu. Ta xem chữ Hán, còn gọi là chữ Nho tức thứ chữ quảng bá nềnvăn minh Nho giáo, được dân ta chấp nhận viết như người Trung Hoa và phát âm theocách của người Việt Nam, và ta đã xem thứ chữ ấy là chữ của mình và đã gọi chữ Hán làchữ Ta (tức là chữ của ta, của mình). Chữ Nho dùng để dạy đạo đức luân lý của thánh hiền, của các bậc tiên thánh nhưKhổng Tử, Mạnh Tử, của các bậc tiên Nho như Chu Hy, Trình Hạo, Trình Xuyên v.v. . ..Thế nên ông cha ta ngày xưa vẫn xem trọng chữ Nho, được xem là thứ chữ của thánhhiền : Một chữ ông Thánh bằng gánh vàng. Sở dĩ chữ thánh hiền qúy như vậy không phải chỉ vì nó là thứ chữ truyền bá đạoNho là đạo của thánh hiền mà còn là vì “Trong non một nghìn năm (từ năm 939 đến cuốithế kỷ thứ XIX), trải mấy triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, chữ nhovẫn được coi làm chữ của chánh phủ dùng : học hành, thi cử, luật lệ, dụ sắc, giấy tờviệc quan đều dùng chữ nho” (2), và lẽ đương nhiên, con đường tiến thân duy nhất củangười xưa là phải qua con đường khoa cử bằng chữ Nho. Sau khi nước nhà được hoàn toàn độc lập (939), các triều đại đầu tiên quá ngắnngủi (nhà Ngô, 939-965, nhà Đinh, 968-980, nhà Tiền Lê, 980-1009) lại còn phải đối phóvới nạn nội chiến tranh quyền đoạt vị nên việc hoc hành thi cử hầu như không được chútrọng. Việc dạy chữ nghĩa phần lớn là do nhà chùa đảm nhận. Nhân tài giúp nước chốngngoại xâm hay phò tá cho các triều đại đầu tiên phần lớn xuất thân từ cửa Thiền. Phải đợiđến khi nhà Lý (1010-1225) thiết lập triều chính được tương đối vững vàng, vua LýThánh Tông (1054-1072) mới cho lập Văn miếu vào năm Canh Tuất (1070) để thờKhổng Tử và các bậc tiền hiền, Nho giáo từ đây mới bắt đầu hưng khởi. Đến năm AtMão (1075), vua Lý Nhân Tông (1072-1127) mới cho mở khoa thi đầu tiên gọi là khoathi tam trường để lấy người có học thức ra làm quan và năm Bính Thìn (1076) cho lậpQuốc Tử Giám để đào tạo nhân tài. Vậy là từ đây chỉ có những người xuất thân từ khoacử mới có thể bước chân vào hoạn lộ. Triều đình còn chuộng thi, thư Khuyên chàng đèn sách, sớm trưa học hành Bởi vì khoa cử là con đường duy nhất để cho giới nam nhi lập thân, lập nghiệp,thế nên dân ta vẫn quan niệm phải để chữ cho con để con tìm đường tiến thân: Một kho vàng không bằng một nang chữ. Ngay trong sách giáo khoa xưa dạy cho các lớp sơ học cũng đã có câu : Di tử kim mãn doanh Hà như giáo nhất kinh (Để cho con đầy một rương vàng Sao bằng dạy cho con một quyển sách) Chữ nghĩa thánh hiền quả là chiếc chìa khóa mở ra mọi ngõ ngách của sự thànhcông . Nó đào tạo nên một lớp nhà Nho hữu ích cho xã hội. Bởi lẽ, “các nhà Nho đều cómột tư cách và một chí hướng chung, đều muốn bồi đắp cho cương thường, giữ gìn lấychính giáo, hoặc lấy sự nghiệp mà giúp vua, giúp dân hoặc lấy phẩm hạnh mà làm mẫumực cho người đời, hoặc lấy giáo hóa mà tác thành bọn hậu tiến, nên đều được xã hộitôn trọng, dù chẳng được triều đình ban cho chức tước bổng lộc, cũng được dân chúngquý mến phục tòng” (3) Thế nên, người con trai lúc nào cũng phải lo việc dùi mài kinh sử để tạo cho mìnhmột tương lai tươi sáng : - Trai thì đọc sách ngâm thơDùi mài kinh sử để chờ kịp khoa Mai sau nối được nghiệp nhàTrước là đẹp mặt, sau là ấm thân - Học trò đèn sách hôm mai Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào Làm nên quan thấp quan cao Làm nên lọng tía, võng đào nghênh ngang - Học hành thì ích vào thân Chức cao quyền trọng dần dần theo sau. Ngay cả trong tình yêu và hôn nhân, người có chữ thánh hiền vẫn chiếm thếthượng phong , vẫn được coi trọng hơn những giới khác kể cả những kẻ giàu có “ruộngsâu trâu nái”, “tiền vạn, bạc muôn” : - Chẳng tham ruộng cả, ao liền Tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ. - Chẳng tham vựa lúa anh đầyTham năm ba chữ cho tầy thế gian - Đêm nằm nghĩ lại mà coiLấy chồng hay chữ như soi gương ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhớ công ơn thầyNHỚ CÔNG ƠN THẦY Từ khi người Trung Hoa đặt nền đô hộ trên đất nước ta, họ đã nghĩ ngay đến việccho du nhập nền văn hoá Trung Hoa vào xã hội Việt Nam, trước tiên là để đào tạo lớpquan lại bản xứ để giúp họ trong công việc cai trị. “ Tổ tiên ta bắt đầu học chữ Hán ngaytừ buổi đầu đời Bắc thuộc (111 trước Tây lịch), mà có lẽ từ đời Triệu Đà (207-137 trướcTây lịch) nữa, song việc giáo dục bắt đầu có tổ chức thì từ đời Sĩ Nhiếp (187-226)”(1) .Trong hơn 1000 năm bị Trung Hoa đô hộ (111 trước Tây lịch - 938 sau Tây lịch) và trongsuốt cả ngót ngàn năm quốc gia độc lập (939-1918), người Việt ta hoàn toàn học theosách vở của người Tàu. Ta xem chữ Hán, còn gọi là chữ Nho tức thứ chữ quảng bá nềnvăn minh Nho giáo, được dân ta chấp nhận viết như người Trung Hoa và phát âm theocách của người Việt Nam, và ta đã xem thứ chữ ấy là chữ của mình và đã gọi chữ Hán làchữ Ta (tức là chữ của ta, của mình). Chữ Nho dùng để dạy đạo đức luân lý của thánh hiền, của các bậc tiên thánh nhưKhổng Tử, Mạnh Tử, của các bậc tiên Nho như Chu Hy, Trình Hạo, Trình Xuyên v.v. . ..Thế nên ông cha ta ngày xưa vẫn xem trọng chữ Nho, được xem là thứ chữ của thánhhiền : Một chữ ông Thánh bằng gánh vàng. Sở dĩ chữ thánh hiền qúy như vậy không phải chỉ vì nó là thứ chữ truyền bá đạoNho là đạo của thánh hiền mà còn là vì “Trong non một nghìn năm (từ năm 939 đến cuốithế kỷ thứ XIX), trải mấy triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, chữ nhovẫn được coi làm chữ của chánh phủ dùng : học hành, thi cử, luật lệ, dụ sắc, giấy tờviệc quan đều dùng chữ nho” (2), và lẽ đương nhiên, con đường tiến thân duy nhất củangười xưa là phải qua con đường khoa cử bằng chữ Nho. Sau khi nước nhà được hoàn toàn độc lập (939), các triều đại đầu tiên quá ngắnngủi (nhà Ngô, 939-965, nhà Đinh, 968-980, nhà Tiền Lê, 980-1009) lại còn phải đối phóvới nạn nội chiến tranh quyền đoạt vị nên việc hoc hành thi cử hầu như không được chútrọng. Việc dạy chữ nghĩa phần lớn là do nhà chùa đảm nhận. Nhân tài giúp nước chốngngoại xâm hay phò tá cho các triều đại đầu tiên phần lớn xuất thân từ cửa Thiền. Phải đợiđến khi nhà Lý (1010-1225) thiết lập triều chính được tương đối vững vàng, vua LýThánh Tông (1054-1072) mới cho lập Văn miếu vào năm Canh Tuất (1070) để thờKhổng Tử và các bậc tiền hiền, Nho giáo từ đây mới bắt đầu hưng khởi. Đến năm AtMão (1075), vua Lý Nhân Tông (1072-1127) mới cho mở khoa thi đầu tiên gọi là khoathi tam trường để lấy người có học thức ra làm quan và năm Bính Thìn (1076) cho lậpQuốc Tử Giám để đào tạo nhân tài. Vậy là từ đây chỉ có những người xuất thân từ khoacử mới có thể bước chân vào hoạn lộ. Triều đình còn chuộng thi, thư Khuyên chàng đèn sách, sớm trưa học hành Bởi vì khoa cử là con đường duy nhất để cho giới nam nhi lập thân, lập nghiệp,thế nên dân ta vẫn quan niệm phải để chữ cho con để con tìm đường tiến thân: Một kho vàng không bằng một nang chữ. Ngay trong sách giáo khoa xưa dạy cho các lớp sơ học cũng đã có câu : Di tử kim mãn doanh Hà như giáo nhất kinh (Để cho con đầy một rương vàng Sao bằng dạy cho con một quyển sách) Chữ nghĩa thánh hiền quả là chiếc chìa khóa mở ra mọi ngõ ngách của sự thànhcông . Nó đào tạo nên một lớp nhà Nho hữu ích cho xã hội. Bởi lẽ, “các nhà Nho đều cómột tư cách và một chí hướng chung, đều muốn bồi đắp cho cương thường, giữ gìn lấychính giáo, hoặc lấy sự nghiệp mà giúp vua, giúp dân hoặc lấy phẩm hạnh mà làm mẫumực cho người đời, hoặc lấy giáo hóa mà tác thành bọn hậu tiến, nên đều được xã hộitôn trọng, dù chẳng được triều đình ban cho chức tước bổng lộc, cũng được dân chúngquý mến phục tòng” (3) Thế nên, người con trai lúc nào cũng phải lo việc dùi mài kinh sử để tạo cho mìnhmột tương lai tươi sáng : - Trai thì đọc sách ngâm thơDùi mài kinh sử để chờ kịp khoa Mai sau nối được nghiệp nhàTrước là đẹp mặt, sau là ấm thân - Học trò đèn sách hôm mai Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào Làm nên quan thấp quan cao Làm nên lọng tía, võng đào nghênh ngang - Học hành thì ích vào thân Chức cao quyền trọng dần dần theo sau. Ngay cả trong tình yêu và hôn nhân, người có chữ thánh hiền vẫn chiếm thếthượng phong , vẫn được coi trọng hơn những giới khác kể cả những kẻ giàu có “ruộngsâu trâu nái”, “tiền vạn, bạc muôn” : - Chẳng tham ruộng cả, ao liền Tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ. - Chẳng tham vựa lúa anh đầyTham năm ba chữ cho tầy thế gian - Đêm nằm nghĩ lại mà coiLấy chồng hay chữ như soi gương ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 260 0 0 -
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 254 0 0 -
Tiểu luận: Tìm hiểu thực trạng giáo dục Đại Học hiện nay ở nước ta
27 trang 206 0 0 -
Tiểu luận: Xã hội học chính trị - xã hội học dân sự
15 trang 126 0 0 -
TIỂU LUẬN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC ĐỨC CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
40 trang 114 0 0 -
1 trang 67 0 0
-
Tiểu luận: Nhóm Xã Hội Gia Đình
13 trang 65 0 0 -
Đề tài: Xây dựng dự án khả thi hệ thống quản lý thư viện ĐHQG HN
20 trang 62 0 0 -
11 trang 45 0 0
-
29 trang 40 0 0