Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 13 Sức mạnh của chân lý
Số trang: 15
Loại file: pdf
Dung lượng: 210.96 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Vào ngày 21-11-1967, tướng Westmoreland trong một bài phát biểu quan trọng tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia cho rằng chúng ta đang bước vào giai đoạn thực hiện những nỗ lực cuối cùng cho cuộc chiến. Tiêu đề của bài báo đăng trên tờ Bưu điện Washington là "Westmoreland - chiến tranh đang tới hồi kết thúc"[86]. Mặc dù đó là một quan điểm sai lệch nhưng tôi cho rằng ông ta tin vào điều đó.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 13 Sức mạnh của chân lý Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam Chương 13 Sức mạnh của chân lý Vào ngày 21-11-1967, tướng Westmoreland trong một bài phát biểu quan trọng tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia cho rằng chúng ta đang bước vào giai đoạn thực hiện những nỗ lực cuối cùng cho cuộc chiến. Tiêu đề của bài báo đăng trên tờ Bưu điện Washington là Westmoreland - chiến tranh đang tới hồi kết thúc[86]. Mặc dù đó là một quan điểm sai lệch nhưng tôi cho rằng ông ta tin vào điều đó. Dĩ nhiên ông ta biết rằng đó chính là thông điệp mà Johnson thực sự muốn ông ta đưa ra. Đó cũng là một thông điệp lọt tai đối với nhiều người. Thật không may cho Westmoreland, chỉ hai tháng sau tính chân thực của thông điệp đó đã bị phủ định không phải bởi giới báo chí đầy nghi hoặc mà là bởi chính những hành động của phe Việt Cộng khi họ tiến hành một cuộc tổng tiến công vào ngày 29-1-1968, ngày đầu tiên của dịp lễ Tết cổ truyền - một ngày lễ lớn của Việt Nam. Quy mô và sự phối hợp của cuộc Tổng tiến công vào dịp Tết, gần như là tổng hợp của các cuộc tấn công xảy ra đồng thời tại hầu hết các tỉnh ở miền Nam Việt Nam cũng như ở ngay tại Sài Gòn, sẽ mãi khiến mọi người kinh ngạc. Nhưng tác động ghê gớm của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân lên nhận thức của công chúng và thái độ của Quốc hội chỉ có thể hiểu được nếu tính đến sáu tháng dư luận căng thẳng trước đó, mà thời điểm cao trào chỉ cách đó một vài tuần. Ngay sau khi tôi được gọi đến Washington để giúp lập một nhóm làm việc cao cấp nhằm đánh giá một cách toàn diện các lựa chọn chiến lược của phe Việt Cộng cho Clark Clifford, người sẽ thay thế McNamara làm Bộ trưởng Quốc phòng kể từ ngày 1 tháng ba (McNamara được Tổng thống Johnson đề bạt chức chủ tịch Ngân hàng thế giới, một kết quả hiển nhiên của bức thư bí mật McNamara gửi Johnson vào ngày 1-10-1967, khuyến cáo Tổng thống chấm dứt ném bom và tiến hành các cuộc thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng và Hà Nội). Được gọi đến Washington t ư cách là một chuyên gia tư vấn của Công ty Rand, một lần nữa tôi được tiếp cận với các biên bản và thông tin cấp cao lưu hành nội bộ Lầu Năm Góc. Hiểu biết của tôi về các khuyến nghị chính sách của Hội đồng Tham mưu liên quân từ năm 1964, nhưng đặc biệt kể từ năm trước, đã khiến tôi tin rằng Wheeler và Westmoreland hẳn phải đẩy mạnh việc leo thang chiến tranh lên quy mô lớn. Mối lo ngại của tôi trở nên hiện hữu vào ngày 27-2-68 khi tôi thấy một bản báo cáo tối mật do tướng Wheeler, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân tr ình lên Tổng thống. Tướng Wheeler đề cập đến việc Westmoreland yêu cầu bổ sung thêm 206.000 quân, gần như giống hệt một yêu cầu mà Westmoreland đã từng nêu lên vào tháng tư năm trước. Báo cáo của Wheeler vẽ lên một bức tranh đen tối về cuộc chiến và xem biện pháp bổ sung quân như một hành động cần thiết nhằm ngăn chặn sự sụp đổ của Nam Việt Nam. Với đề nghị này của Wheeler và Westmoreland, dường như chúng ta đang đứng cận kề một vòng xoáy leo thang mới của chiến tranh, một vòng xoáy nguy hiểm nhất. Mặc dù người ta lý giải yêu cầu của Westmoreland như hành động cứu vãn tình hình, tôi tin rằng việc tăng quân số, một quá trình đòi hỏi lệnh động viên quân dự bị, sẽ dẫn tới kết cục là chiến tranh sẽ lan rộng. Việc huy động quân dự bị và mức độ thương vong nghiêm trọng kéo dài của quân đội Mỹ sẽ khiến nhân dân và Quốc hội chia sẻ hơn nhu cầu chiến thắng bằng cách mở rộng quy mô chiến tranh của Hội đồng Tham mưu liên quân. Tôi nghi ngờ rằng lý do thực sự mà Westmoreland và Hội đồng Tham mưu muốn bổ sung quân sổ không phải để tránh thất bại mà là tiến hành việc mở rộng quy mô các chiến dịch, điều mà Westmoreland từ lâu đã cổ xuý, để bao gồm cả Campuchia, Lào và ít nhất là phía nam của Bắc Việt Nam. Ngay sau bài phát biểu tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia vào tháng mười một năm 1967, Westmoreland đã có những lời tuyên bố với báo giới về đường tiếp viện qua Campuchia, những bằng chứng ủng hộ việc mở rộng chiến tranh. Hơn nữa, sau khi đối thủ bị suy yếu bởi cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, cảc nguồn tin tại Lầu Năm Góc cho tôi biết rằng Westmoreland tin và hối thúc đây là cơ hội để tiến quân một cách quyết đoán vào Bắc Việt Nam. Tôi nghĩ sẽ có những thất bại đang chờ đợi phía trước trên con đường này. Tôi không tin rằng quy mô của cuộc xâm lược Bắc Việt Nam sẽ chỉ giới hạn tại phía nam của nó. Thất bại trong việc chấm dứt chiến tranh sẽ dẫn tới sức ép về mặt quân sự nhằm tạo ra một cuộc đổ bộ kiểu Incheon vào khu vực gần Hải Phòng để chiếm Hà Nội và tiến hành chiến tranh trên toàn miền Bắc, nơi xuất phát nguồn gốc của vấn đề. Nhưng lặp lại kiểu xâm chiếm của người Pháp không chỉ làm trầm trọng hơn vấn đề của chúng ta mà thậm chí còn làm tình hình t ồi tệ hơn thế. Thông qua các cuộc thảo luận của tôi với các sĩ quan dưới quyền Westmoreland tại Việt Nam, tôi đã đi đến kết luận rằng ông ta còn mù mờ về sự khác nhau trong nền chính trị của miền Bắc và Nam Việt Nam. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 13 Sức mạnh của chân lý Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam Chương 13 Sức mạnh của chân lý Vào ngày 21-11-1967, tướng Westmoreland trong một bài phát biểu quan trọng tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia cho rằng chúng ta đang bước vào giai đoạn thực hiện những nỗ lực cuối cùng cho cuộc chiến. Tiêu đề của bài báo đăng trên tờ Bưu điện Washington là Westmoreland - chiến tranh đang tới hồi kết thúc[86]. Mặc dù đó là một quan điểm sai lệch nhưng tôi cho rằng ông ta tin vào điều đó. Dĩ nhiên ông ta biết rằng đó chính là thông điệp mà Johnson thực sự muốn ông ta đưa ra. Đó cũng là một thông điệp lọt tai đối với nhiều người. Thật không may cho Westmoreland, chỉ hai tháng sau tính chân thực của thông điệp đó đã bị phủ định không phải bởi giới báo chí đầy nghi hoặc mà là bởi chính những hành động của phe Việt Cộng khi họ tiến hành một cuộc tổng tiến công vào ngày 29-1-1968, ngày đầu tiên của dịp lễ Tết cổ truyền - một ngày lễ lớn của Việt Nam. Quy mô và sự phối hợp của cuộc Tổng tiến công vào dịp Tết, gần như là tổng hợp của các cuộc tấn công xảy ra đồng thời tại hầu hết các tỉnh ở miền Nam Việt Nam cũng như ở ngay tại Sài Gòn, sẽ mãi khiến mọi người kinh ngạc. Nhưng tác động ghê gớm của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân lên nhận thức của công chúng và thái độ của Quốc hội chỉ có thể hiểu được nếu tính đến sáu tháng dư luận căng thẳng trước đó, mà thời điểm cao trào chỉ cách đó một vài tuần. Ngay sau khi tôi được gọi đến Washington để giúp lập một nhóm làm việc cao cấp nhằm đánh giá một cách toàn diện các lựa chọn chiến lược của phe Việt Cộng cho Clark Clifford, người sẽ thay thế McNamara làm Bộ trưởng Quốc phòng kể từ ngày 1 tháng ba (McNamara được Tổng thống Johnson đề bạt chức chủ tịch Ngân hàng thế giới, một kết quả hiển nhiên của bức thư bí mật McNamara gửi Johnson vào ngày 1-10-1967, khuyến cáo Tổng thống chấm dứt ném bom và tiến hành các cuộc thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng và Hà Nội). Được gọi đến Washington t ư cách là một chuyên gia tư vấn của Công ty Rand, một lần nữa tôi được tiếp cận với các biên bản và thông tin cấp cao lưu hành nội bộ Lầu Năm Góc. Hiểu biết của tôi về các khuyến nghị chính sách của Hội đồng Tham mưu liên quân từ năm 1964, nhưng đặc biệt kể từ năm trước, đã khiến tôi tin rằng Wheeler và Westmoreland hẳn phải đẩy mạnh việc leo thang chiến tranh lên quy mô lớn. Mối lo ngại của tôi trở nên hiện hữu vào ngày 27-2-68 khi tôi thấy một bản báo cáo tối mật do tướng Wheeler, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân tr ình lên Tổng thống. Tướng Wheeler đề cập đến việc Westmoreland yêu cầu bổ sung thêm 206.000 quân, gần như giống hệt một yêu cầu mà Westmoreland đã từng nêu lên vào tháng tư năm trước. Báo cáo của Wheeler vẽ lên một bức tranh đen tối về cuộc chiến và xem biện pháp bổ sung quân như một hành động cần thiết nhằm ngăn chặn sự sụp đổ của Nam Việt Nam. Với đề nghị này của Wheeler và Westmoreland, dường như chúng ta đang đứng cận kề một vòng xoáy leo thang mới của chiến tranh, một vòng xoáy nguy hiểm nhất. Mặc dù người ta lý giải yêu cầu của Westmoreland như hành động cứu vãn tình hình, tôi tin rằng việc tăng quân số, một quá trình đòi hỏi lệnh động viên quân dự bị, sẽ dẫn tới kết cục là chiến tranh sẽ lan rộng. Việc huy động quân dự bị và mức độ thương vong nghiêm trọng kéo dài của quân đội Mỹ sẽ khiến nhân dân và Quốc hội chia sẻ hơn nhu cầu chiến thắng bằng cách mở rộng quy mô chiến tranh của Hội đồng Tham mưu liên quân. Tôi nghi ngờ rằng lý do thực sự mà Westmoreland và Hội đồng Tham mưu muốn bổ sung quân sổ không phải để tránh thất bại mà là tiến hành việc mở rộng quy mô các chiến dịch, điều mà Westmoreland từ lâu đã cổ xuý, để bao gồm cả Campuchia, Lào và ít nhất là phía nam của Bắc Việt Nam. Ngay sau bài phát biểu tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia vào tháng mười một năm 1967, Westmoreland đã có những lời tuyên bố với báo giới về đường tiếp viện qua Campuchia, những bằng chứng ủng hộ việc mở rộng chiến tranh. Hơn nữa, sau khi đối thủ bị suy yếu bởi cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, cảc nguồn tin tại Lầu Năm Góc cho tôi biết rằng Westmoreland tin và hối thúc đây là cơ hội để tiến quân một cách quyết đoán vào Bắc Việt Nam. Tôi nghĩ sẽ có những thất bại đang chờ đợi phía trước trên con đường này. Tôi không tin rằng quy mô của cuộc xâm lược Bắc Việt Nam sẽ chỉ giới hạn tại phía nam của nó. Thất bại trong việc chấm dứt chiến tranh sẽ dẫn tới sức ép về mặt quân sự nhằm tạo ra một cuộc đổ bộ kiểu Incheon vào khu vực gần Hải Phòng để chiếm Hà Nội và tiến hành chiến tranh trên toàn miền Bắc, nơi xuất phát nguồn gốc của vấn đề. Nhưng lặp lại kiểu xâm chiếm của người Pháp không chỉ làm trầm trọng hơn vấn đề của chúng ta mà thậm chí còn làm tình hình t ồi tệ hơn thế. Thông qua các cuộc thảo luận của tôi với các sĩ quan dưới quyền Westmoreland tại Việt Nam, tôi đã đi đến kết luận rằng ông ta còn mù mờ về sự khác nhau trong nền chính trị của miền Bắc và Nam Việt Nam. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
di tích lịch sử lịch sử văn hóa việt nam tài liệu lịch sử kiến thức lịch sử những bí mật về chiến tranh Việt NamTài liệu liên quan:
-
BÀI GIẢNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN - TS. NGUYỄN VĂN LỊCH - 5
23 trang 207 0 0 -
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vương (chủ biên)
31 trang 117 0 0 -
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp khoa Bảo tàng học: Tìm hiểu di tích đình Đỗ Lâm Thượng
11 trang 113 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 98 1 0 -
82 trang 81 0 0
-
GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC - TS. NGUYỄN ĐỨC BÁCH - 8
18 trang 74 0 0 -
GIÁO TRÌNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - LƯU THÔNG TIỀN TỆ - THS. TRẦN ÁI KẾT - 5
24 trang 69 0 0 -
những bí mật về chiến tranh việt nam: phần 2 - nxb công an nhân dân
202 trang 68 0 0 -
GIÁO TRÌNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - LƯU THÔNG TIỀN TỆ - THS. TRẦN ÁI KẾT - 1
24 trang 54 0 0 -
86 trang 51 0 0