Danh mục

Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 14 Chiến dịch năm 1969

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 172.23 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Với bài phát biểu của Tổng thống vào ngày 31-3 năm 1968, công chúng và đa phần các nhà bình luận cho rằng ông ta đã quyết định nhanh chóng chấm dứt chiến tranh theo những điều kiện có lợi nhất cho ông ta, cho dù đó là điều kiện gì đi nữa.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 14 Chiến dịch năm 1969Những Bí Mật VềChiến Tranh Việt Nam Chương 14 Chiến dịch năm 1969Với bài phát biểu của Tổng thống vào ngày 31-3 năm 1968, công chúng và đa phần cácnhà bình luận cho rằng ông ta đã quyết định nhanh chóng chấm dứt chiến tranh theonhững điều kiện có lợi nhất cho ông ta, cho dù đó là điều kiện gì đi nữa. Rõ ràng là cácnhà lãnh đạo Hà Nội lúc đầu cũng nghĩ như vậy khiến cho Johnson và Rusk rất ngạcnhiên và họ đồng ý bàn bạc trực tiếp mặc dù việc ném bom vẫn đang tiếp diễn. Tại saoông ta không rút ra khỏi chiến dịch này và ngừng ném bom miền Bắc? Nhưng tôi khôngchắc chắn lắm. Một vài tuần trôi qua và hai bên vẫn chưa thoả thuận được sẽ gặp nhau ởđâu, chứ đứng nói gì tới nội dung chương trình làm việc.Một ngày tháng tư trong văn phòng của mình ở Lầu Năm Góc, Mort Halperin nhận xétvới tôi rằng việc ném bom vẫn đang diễn ra ác liệt hơn trước đây phía Nam vĩ tuyến 19và trên đất Lào. Có ba người trong chính phủ này tin vào những gì chúng ta đang làm:Walt Rostow, Dean Rusk, và Tổng thống.Đó là một phỏng đoán chính xác đến không ngờ. Tuy nhiên phỏng đoán đó cũng có cơ sởcủa nó. Ở phía bên kia bàn làm việc chúng tôi ngồi một vài phút và cùng nhau rà soát lạinhững nhân vật khác trong chính phủ và xem xem có thể đưa thêm ai vào trong danh sachba người kể trên hay không. Chúng tôi liệt kê lại tất cả các cơ quan khác nhau ởWashington phụ trách về Việt Nam và chúng tôi biết một loạt những nhân vật tham giavào việc hoạch định chính sách. Nhưng chúng tôi không thể nghĩ ra ai thêm để đưa vàodanh sách nêu trên. Không có một ai trong nhóm soạn thảo Hồ sơ Lầu Năm Góc, cũngkhông có một ai chúng tôi biết tại Cục T ình báo trung ương, Bộ Ngoại giao hay NhàTrắng.Mãi đến tận gần đây, Mort vẫn còn nhắc lại với tôi rằng điều đó không có nghĩa là tất cảnhững ai hồi đó chúng tôi nghĩ đến đều là những người quyết tâm rút quân. Vẫn có nhữngngười, đặc biệt trong lực lượng không quân, tin rằng chúng ta cần tiếp tục ném bom ácliệt hơn nữa. Vấn đề ở đây là họ không còn tin rằng những gì chúng ta đang làm làphương án tối ưu thứ hai hoặc phương án có thể chấp nhận được, thậm chí có thể coi làtác nhân để chúng ta tiếp tục lấn tới. Tất cả những phương án hoặc ném bom ác liệt hơntại miền Bắc hoặc rút quân hoặc đàm phán rút ra khỏi Việt Nam giờ đây không có nghĩalý gì với họ. Trên thực tế, những quan chức này có cùng quan điểm mà lúc đó dân chúngđều chia sẻ: Hoặc chiến thắng hoặc rút quân về nước.Điều đáng chú ý là trong phỏng đoán của chúng tôi, số lượng dân chúng ủng hộ việc leothang chiến tranh hơn là rút quân thì nhiều hơn là số lượng quan chức và binh lính, tínhtới thời điểm này - thậm chí trước Tết Mậu Thân năm 1968 và điều đó càng đúng sau TếtMậu Thân. Thậm chí ngay trong các sĩ quan quân đội bảo thủ, một số người làm việctrong Lực lượng tác chiến của Lầu Năm Góc, và đặc biệt trong những sĩ quan quân độitrước đây đã phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, số lượng sĩ quan cho rằng nên rút quânvào cuối năm 1967 nhiều hơn dân chúng. Tuy nhiên lệnh ném bom vẫn được phát ra vàvẫn được thi hành. Trong thời gian 10 tháng sau khi McNamara rời Nhà Trắng, ClarkClifford, theo lệnh Tổng thống, đã ném xuống Đông Dương một số lượng bom (1,7 triệutấn) nhiều hơn số lượng bom của ba năm trước đó (15 triệu tấn). Nếu Halperin đúng, vàtôi tin rằng anh ta đúng thì lệnh ném số lượng bom khổng lồ như vậy trong vòng 10 thángđã được cấp dưới của Tổng thống, từ Clifford trở xuống tới các phi công ngoan ngo ãn thihành và họ tin rằng việc làm đó không hề phục vụ lợi ích quốc gia chút nào. Là mộtngười Mỹ, tôi đã dành nhiều thời gian trong vòng 30 năm qua để cố gắng hiểu và chấpnhận được việc làm đó.Khi bầu cử Tổng thống đang diễn ra, tôi cảm thấy lo lắng một khi có nhu cầu chia sẻquan điểm và nhận thức của tôi với bất kỳ một nhân vật chính trị nào. Đối với nhữngngười trong cuộc tiếng tăm của tôi từ Việt Nam và Lầu Năm Góc khiến nhiều ngườimuốn lắng nghe. Khi tôi nhận được phản hồi của các cố vấn hay đại diện của các ứng cửviên chức Tổng thống, từ Romney và Rockefeller tới Kennedy và Humphrey, tôi thấyrằng tất cả họ đều có chung quan điểm với tôi. Những nỗ lực thuyết phục của tôi hiện naydường như không còn cấp bách như hồi đầu năm, nhưng tôi vẫn có thể trấn an nhữngngười ngoài cuộc nghi ngờ về ý muốn của họ muốn chính phủ Mỹ rút quân khỏi ViệtNam. Thật đáng tiếc, tôi không biết một ai có liên lạc với George Wallace, người đã chọntướng Curtis Lemay làm phó soái để tranh cử cùng ông ta. Đối với phần lớn các nhà quansát, kế hoạch kết thúc chiến tranh của Nixon nghe giống như kế hoạch rút quân được cảitrang. Thực ra, hai nhà báo Walter Lippmann và Joseph Kraft đều đoán rằng một ôngNixon mới có nhiều khả năng kết thúc chiến tranh hơn là ông Humphrey, người mà ủnghộ chính sách của Johnson hơn. Đối với tôi, điều đó nghe rất hợp lý. Kỳ vọng của tôi làtất cả các ứng cử ...

Tài liệu được xem nhiều: