Danh mục

Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 15 Tới khách sạn Pierre

Số trang: 17      Loại file: pdf      Dung lượng: 219.38 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong khoảng thời gian hai năm sau khi Lyndon Johnson quyết định không ra tranh cử lần thứ hai, từ tuyên bố của ông ta vào ngày 31-3-1968 tới khi Nixon xâm lược Campuchia ngày 30-4-1970, cuộc chiến tranh Việt Nam dường như không còn được giới chính trị ở Mỹ bàn cãi nhiều như một vấn đề nóng hổi.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 15 Tới khách sạn PierreNhững Bí Mật VềChiến Tranh Việt Nam Chương 15 Tới khách sạn PierreTrong khoảng thời gian hai năm sau khi Lyndon Johnson quyết định không ra tranh cửlần thứ hai, từ tuyên bố của ông ta vào ngày 31-3-1968 tới khi Nixon xâm lượcCampuchia ngày 30-4-1970, cuộc chiến tranh Việt Nam dường như không còn được giớichính trị ở Mỹ bàn cãi nhiều như một vấn đề nóng hổi. Trong toàn bộ quá trình đó, baogồm cả những cuộc bầu cử của Đảng Dân chủ chọn ứng cử viên ra tranh cử Tổng thống,chiến dịch vận động tranh cử vào mùa thu và 16 tháng đầu tiên của chính quyền Nixon,cuộc chiến tranh Việt Nam nổi lên hai lần như một cuộc tranh luận rất ngắn gọn: trongđại hội Chicago và khoảng sáu tuần phản đối quyết liệt mùa thu năm 1969.Việc dư luận không mấy tranh cãi và bàn bạc (trừ trong những thời kỳ vừa nêu trên) phảnánh niềm tin kiên định trong đởi sống chính trị ở Mỹ: tuyên bố của Johnson ngày 31-3,bao gồm cả quyết định của ông ta ngừng ném bom phần phía bắc của Bắc Việt Nam vàmong muốn đàm phán với chính phủHà Nội tạo ra một bước ngoặt rất quan trọng mang tính quyết định dẫn đến việc chấm dứtnhanh chóng sự can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Đông Dương.Bản thân Hồ sơ Lầu Năm Góc - tối mật Lịch sử quá trình hoạch định chính sách của Mỹtại Việt Nam, 1945-1968 - phản ánh tình hình tương tự trong những trang cuối và ngaytrong tiêu đề của tập tài liệu đó. Nghiên cứu này, khi được McNamara bắt đầu tiến hànhtừ giữa năm 1967, là một nghiên cứu chính thức xét về nội dung và thời gian, và côngviệc nghiên cứu tiếp tục đến đầu năm 1969; nhưng các tác giả và người giám sát nghiêncứu này quyết định ngừng nghiên cứu vào ngày 31-3-1968. Việc chọn ngày này để quyếtđịnh ngừng nghiên cứu đối với lịch sử hoạch định chính sách của Mỹ ở Việt Nam thực sựphản ánh sự thật rằng những ai phụ trách về nghiên cứu đó (Morton H. Halperin và LeslieGeth, dưới sự giám sát của Paul Warnke) có cùng niềm tin như dân chúng rằng việc đưara tuyên bố ngày hôm đó chính là sự chuyển hướng có tính quyết định đối với việc Mỹrút quân khỏi Việt Nam. Chương kết 3 trang ở cuối tập tài liệu này bắt đầu với tuyên bốngày 3-4 của Hà Nội rằng Hà Nội sẽ đàm phán với Mỹ và viết tiếp: Bước đầu tiên trêncon đường dài tiến tới hoà bình đã được khởi động. Trong một hành động đầy kịch tính,Tổng thống Johnson đã một lần đưa vấn đề Việt Nam ra khỏi tranh luận chính trị trongnước[91].Cái gọi là đã một lần đó kéo dài trong gần hai năm.Những gì nổi bật trong quá trình kéo dài này về niềm tin bị lừa dối của công chúng rằnghoà bình đã cận kề đâu đây là ở chỗ mặc dù một số hình thức hội đàm và cuối cùng làđàm phán chính thức đã được tiến hành nhưng chiến tranh vẫn tiếp diễn không ngừng vàquy mô không kích vẫn không hề giảm. Sau tháng 3-1968, máy bay Mỹ không còn dộibom trên vĩ tuyến 20 ở Bắc Việt Nam nữa. Sau tháng mười một thì không còn dội bommột lần nào xuống miền Bắc Việt Nam nữa. Nhưng đơn giản là Mỹ chỉ chuyển hướngném bom sang Nam Việt Nam và Lào (và bí mật đầu năm 1969 chuyển hướng ném bomsang cả Campuchia), một số lượng bom lớn hơn bao giờ hết.Từ tháng 11-1968 đến tháng 8-1969, tôi đã ngờ nghệch hy vọng (như tất cả những ngườikhác) về tiền đồ của một giải pháp thông qua đàm phán. Nhưng tôi có lẽ là người thuộcnhóm thiểu số vẫn còn nhớ thực tế cuộc chiến trên quy mô lớn, cùng với khả năng rằngcuộc chiến này có thể còn tiếp tục lâu dài và leo thang bằng quyết định của Washingtonhay Hà Nội.Tính tới ngày 6-11-1968, một ngày sau bầu cử, tôi tiếp tục bị ám ảnh bởi chiến tranh ViệtNam sau mười tuần quyết tâm không nghĩ g ì về nó nữa. Sáng hôm đó, tin tức báo chí chobiết Hubert Humphrey đã thua cuộc không khiến tôi bận tâm. Tôi đã bỏ phiếu choHumphrey vì mọi lý do nhưng Việt Nam mới là mối quan tâm duy nhất của tôi. Tôikhông có lý do gì để nghĩ rằng Nixon có thể kéo dài cuộc chiến thất bại của Đảng Dânchủ lâu hơn Humphrey. Là người của Đảng Cộng hoà, ông ta có thể làm được ngược lại.Việc ném bom ở miền Bắc đã chấm dứt, mở ra khả năng đàm phán thực sự, và Nixon đãcông khai ủng hộ điều đó. Thậm chí ông ta còn đề nghị muốn tới Sài Gòn, ngay trước kỳbầu cử, để hối thúc Thiệu đồng ý đàm phán tại Paris.Trên thực tế, lời bình luận tồi tệ nhất mà tôi nghe được về Nixon là từ Henry Kissingercủa Đại học Harvard. Ông ta là học trò cưng và là cố vấn của Nelson Rockefeller. Ông tađến thăm Rand vào ngày thứ sáu, 8-11, ba ngày sau cuộc bầu cử theo lời mời của FredIklé, Trưởng khoa Khoa học xã hội.Trong buổi nói chuyện ngày hôm đó, Kissinger nhắc đi nhắc lại tuyên bố mà ông ta đãphát biểu tại đại hội của Đảng Cộng hoà:Richard Nixon không xứng đáng được làm Tổng thống.Dường như đó là lời nhận xét lộ liễu đối với một người hoạt động tích cực trong đời sốngchính trị của Đảng Cộng hoà, đặc biệt giờ đây khi Nixon đã được bầu làm Tổng thống.Tuy vậy, điều đó không ngăn được Kissinger nhận lời mời ...

Tài liệu được xem nhiều: