Những loại sâu hại thường thấy xuất hiện trên cây bông vải là sâu xanh, sâu xanh da láng, sâu hồng, sâu đo, sâu loang, rầy xanh, rệp, bọ trĩ, nhện đỏ. Chúng xuất hiện với mật số rất cao, gối lứa liên tục. Mỗi vụ bông thường phun từ 15-20 lần thuốc hóa học. Hiệu quả kinh tế trồng bông thấp, đồng thời làm phá vỡ cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường. Một nhóm nghiên cứu đã đề xuất Biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây bông vải nhằm khống chế sâu hại....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những biện pháp khống chế sâu hại và tăng năng suất trồng bông vải Những biện pháp khống chế sâu hại và tăng năng suất trồng bông vảiNhững loại sâu hại thường thấy xuất hiện trên cây bông vải là sâu xanh, sâuxanh da láng, sâu hồng, sâu đo, sâu loang, rầy xanh, rệp, bọ trĩ, nhện đỏ.Chúng xuất hiện với mật số rất cao, gối lứa liên tục. Mỗi vụ bông thường phun từ 15-20 lần thuốc hóa học. Hiệu quả kinhtế trồng bông thấp, đồng thời làm phá vỡ cân bằng sinh thái, ô nhiễm môitrường. Một nhóm nghiên cứu đã đề xuất Biện pháp quản lý dịch hại tổnghợp (IPM) trên cây bông vải nhằm khống chế sâu hại. Các biện pháp đượcáp dụng là: - Không dùng thuốc hóa học vào đầu và giữa vụ bông để bảo vệ vàlàm phong phú quần thể thiên địch kiềm chế sâu hại. Chỉ phun 1-2 lần thuốcvào cuối vụ khi cần thiết để trừ rầy xanh, bảo vệ bộ lá cho cây trồng ở giaiđoạn cuối. Kết quả cho thấy một số loài thiên địch chính: nhện, ong mắt đỏ,ong mắt vàng, bọ rùa, bọ xít ăn thịt,... hoạt động mạnh quanh năm, chúng cóthể khống chế được sâu hại, nhất là sâu xanh. Sâu xanh bị thiên địch khốngchế từ 20-80%. - Chuyển vụ bông từ mùa khô sang mùa ma. Chọn thời điểm trồngbông sớm (trong tháng 7) sau cây một vụ hoặc gối vụ một để tránh né sâuhại. - Trồng giống bông kháng rầy trung bình (L18, VN20) có xử lý hạtgiống bằng thuốc nội hấp Imidachloprid có thể bảo vệ được cây bông khôngbị rầy hại từ 80-90 ngày trong vụ mùa, chất lượng và tỷ lệ xơ cao hơn giốngkháng rầy cao (Bioseed 7). Sử dụng cây bông lai F1 có khả năng phục hồ itốt sau giai đoạn bị sâu hại. - Hạn chế sử dụng thuốc hóa học bằng cách áp dụng IPM trên bông. - Xử lý hạt giống để trừ sâu hồng, tuyệt đối không để cây bông lu trênđồng ruộng. Nếu thấy xuất hiện sâu hồng cuối vụ có thể phun 1-2 lần thuốchóa học kết hợp với trừ rầy. - Luân, xen canh bông với những cây trồng khác góp phần làm phongphú hóa quần thể thiên địch có tác dụng kiềm chế sâu hại. - Xử lý chất điều tiết sinh trưởng, tăng tính kháng rầy của cây bông.Khi phun lên lá hợp chất VCC và KNO3 mức độ kháng rầy và kháng hạn củacây bông cao hơn không xử lý. Biện pháp phòng trừ một số địch hại quan trọng Sâu xanh (Helicoverpa armigera): Chỉ khống chế dịch hại bằng kýsinh và thiên địch, tuyệt đối không dùng thuốc hóa học nào để trừ sâu xanh.Rầy xanh (Amrasca devastans): Sử dụng giống kháng trung bình, phối hợpxử lý hạt giống bằng thuốc nội hấp (Imidachloprid), phun 1-2 lần thuốc hóahọc vào cuối vụ khi cần thiết. Rệp bông (Aphis gossypii): Rệp có mặt trên suốt vụ bông không thànhdịch, là nguồn thức ăn cho các loài thiên địch trên đồng ruộng. Không cầ nxử lý thuốc hóa học trừ rệp, trừ những vùng bông có bệnh xanh lùn sẽ phảicó biện pháp phòng trừ rệp khác. Sâu đo (Anomis flava): không là dịch hại, nguồn thức ăn phong phúcho thiên địch, không cần phải xử lý thuốc hóa học. Sâu hồng (Pectinophora gossypiella): Xử lý hạt giống bằng thuốc hóahọc, loại triệt để cây bông lu từ vụ trước. Sâu xanh da láng (Spodoptera exigua), bọ trĩ (Thrips tabaci): Không làdịch hại. Với việc áp dụng các biện pháp tổng hợp trên, những dịch hại nghiêmtrọng nh rầy xanh, sâu xanh không còn là mối đe dọa cho ngành sản xuấtbông, đồng thời giảm số lần phun thuốc hóa học từ 15-20 lần xuống còn 0-2lần/vụ, trồng bông không còn gây ô nhiễm, năng suất bông đạt bình quân từ5-6 tạ lên 11-12 tạ/ha, nông dân sản xuất có lãi. Chấm dứt hẳn dùng thuốchóa học ở giai đoạn đầu và giữa vụ bông, bảo vệ được quần thể thiên địch,lập lại được sự cân bằng sinh thái gần với tự nhiên, kìm hãm sâu hại bôngtrên diện rộng. Tiến bộ kỹ thuật cho định hướng IPM: Theo nhận định của nhóm nghiên cứu, năng suất bông còn thấp khôngphải do dịch hại như trước đây mà do đất mất cân bằng sinh thái, dinh dưỡngtrong đất trở nên nghèo nàn, nguồn bệnh trong đất ngày một gia tăng donhiều năm bón đơn thuần phân hóa học và dùng quá nhiều thuốc bảo vệ thựcvật. Phải có chơng trình phục hồi lại đời sống và sự cân bằng dinh dưỡng vàvi sinh vật đất mới có thể đa năng suất cây trồng lên và giảm bớt rủi ro dosâu bệnh gây ra. Những nhân tố kỹ thuật cần được áp dụng: Sử dụng giống bông kháng rầy có gen Bt kháng sâu. Luân canh bôngvới lúa, áp dụng kỹ thuật không làm đất để có thể gieo bông thật sớm sau lũở đồng bằng sông Cửu Long. Sử dụng giống ngắn ngày với mật độ cao. Ápdụng kỹ thuật tới tràn hoặc phủ màng để ngăn chặn sâu hại làm nhộng trongđất như bọ trĩ. Sử dụng phân sinh học và kỹ thuật phủ rác để phục hồi hữucơ cho đất, phục hồi quần thể vi sinh vật đất, đem lại sự cân bằng sinh tháigóp phần làm giảm sâu bệnh và tăng năng suất cây trồng. Trong trường hợpdùng giống bông có gen Bt kháng sâu miệng nhai, không nên dùng quánhiều thuốc hóa học để trừ sâu chích hút sẽ phá vỡ cân bằng sinh thái làmdị ...