Đặc trưng cái tôi trữ tình trong ca dao là: thông thường nội dung tác phẩm trữtình được thể hiện gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình, đó là hình tượng ngườitrực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình khôngcó diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể như nhân vật tự sự và kịch nhưngnhân vật trữ tình cụ thể trong giọng điệu, cảm xúc, trong cách cảm, cách nghĩ thể hiệnđược tâm hồn người, tấm lòng người....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những đặc trưng cơ bản của thi pháp ca dao III Những đặc trưng cơ bản của thi pháp ca dao 1. Đặc trưng cái tôi trữ tình trong ca dao, tính t ập th ể trong sáng tác và tínhtruyền miệng trong lưu hành, giao tiếp khiến cái tôi tr ữ tình c ủa ca dao không códấu vết cá nhân,cá thể. Cái tôi trữ tình là gì? Trong ca dao dân ca Việt Nam, cáitôi trữ tình thường là những cảm xúc chủ đạo được thể hiện tinh tế, đa dạng. Đặc trưng cái tôi trữ tình trong ca dao là: thông thường nội dung tác phẩm trữtình được thể hiện gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình, đó là hình t ượng ng ườitrực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác ph ẩm. Nhân v ật tr ữ tình khôngcó diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể như nhân vật tự sự và kịch nh ưngnhân vật trữ tình cụ thể trong giọng điệu, cảm xúc, trong cách cảm, cách nghĩ thể hiệnđược tâm hồn người, tấm lòng người. Tập thể là một biểu hiện khác của những phương thức sáng tác và lưu truy ềnvăn học dân gian. Có những tác phẩm văn học dân gian ngay từ nguồn gốc đã là sángtác cá nhân nhưng lưu truyền bằng con đường của trí nhớ. Dùng trí nh ớ không th ể gi ữnguyên vẹn được cả nội dung và hình thức của tác phẩm, vì thế mà sáng tác ấy mỗingười có thể thay đổi tùy ý ít nhiều. Hơn nữa khi hát hoặc kể lại theo sở thích, mụcđích của mình và của người nghe, thế là dù cho lúc đ ầu có th ể là do m ột cá nhân sángtác, nhưng trong khi lưu truyền qua những người khác nhau, tác ph ẩm văn h ọc luônluôn có khả năng tiếp nhận những yếu tố sáng tác mới và trở thành sở hữu tập thể. Truyền miệng là phương thức sáng tác và lưu hành của văn học dân gian. Vănhọc truyền miệng ra đời từ khi dân tộc chưa có chữ viết. Tuy nhiên khi dân t ộc đã cóchữ viết thì văn học truyền miệng vẫn tiếp tục phát triển. Một m ặt do đ ại đa s ố nhândân không có điều kiện học hành để hưởng thụ thành tựu văn học viết, mặt khác dovăn học viết không thể hiện đầy đủ tư tưởng, tình cảm, nguy ện vọng, th ị hi ếu và t ậpquán sinh hoạt nghệ thuật của nhân dân. Vì thế nhiều người có học mà ch ịu ảnhhưởng tư tưởng nhân dân cũng tham gia sáng tác và lưu truyền văn học dân gian. Ca dao là loại thơ trữ tình dân gian, là tiếng nói của tư tưởng, tình cảm và m ơước, khát vọng của người bình dân. Vì lẽ đó, khi những câu ca dao đ ược ra đời vàtruyền đi trong cộng đồng, nó đã bị phai dần cái tôi trữ tình... sáng tác c ủa m ột cá nhânmà được sửa đổi đôi chút và trở thành của cả cộng đồng, c ủa c ả nh ững con ng ười cócùng tình thế, ước mơ, tình cảm như câu ca dao. Và có lẽ vậy mà qua ca dao ta c ảmnhận được sâu sắc nhịp trái tim yêu thương của người bình dân với tất cả sự ấm áp,ngọt ngào cùng tình yêu thương, lòng lạc quan, nghị lực ý chí phi th ường v ượt lên m ọikhổ cực của cuộc sống.Vì thế nhân vật trữ tình trong ca dao là người bình dân, ng ườithi sĩ, những người sáng tác, người diễn xướng,... thống nhất với nhau. - Chủ thể trữ tình thường được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với đối tượng trữtình, biểu hiện qua hai loại nhân vật: + Nhân vật hiển ngôn: hình tượng con người được trực ti ếp th ể hi ện tình c ảm,bộc lộ tâm tư, suy nghĩ, cảm xúc trong lời ca. + Nhân vật biểu tượng: thông qua biểu tượng, con người bộc lộ tâm tư cảm xúcvới nhau, đó là những biểu tượng gần gũi với con người Việt Nam: con cò, conthuyền, cây đa, bến nước, sân đình.... -Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. - Thuyền về có nhớ bến chăng?/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. - Các nhân vật trữ tình được đặt trong nhiều mối quan hệ: + Quan hệ gia đình: mẹ-con, cha-con, mẹ chồng-nàng dâu, vợ-chồng, anh-em,...-Ơn cha nặng lắm ai ơi/ Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.- “Anh em như thể chân tay/ Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”+ Quan hệ lứa đôi: chàng trai-cô gái, bạn bè,...- “Thương ai rồi lại nhớ ai/ Mặt buồn rười rượi như khoai mới trồng”.+ Quan hệ xã hội: người nông dân-quan lại, chủ-tớ...- Con ơi nhớ lấy câu này/ Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.- Con vua thì lại làm vua/ Con vải ở chùa lại quét lá đa.- Nhân vật trữ tình hiện lên trong sinh hoạt hằng ngày, cuộc sống lao động, trong mốiquan hệ với thiên nhiên, gia đình, làng xóm...có lúc đối thoại, có lúc độc thoại...VD: Đối thoại:Hôm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.Em được thì cho anh xin/ Hay là em để làm tin trong nhà.Hoặc:Đôi ta như lửa mới nhen/ Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu” Độc thoại:Nhớ ai con mắt lim dim/ Chân đi thất thiểu như chim tha mồi.Nhớ ai hết đứng lại ngồi/ Ngày đêm tưởng nhớ một người tình nhân.+ Cảm xúc, tâm tư của nhân vật trữ tình được bộc lộ bằng nhiều giọng điệu: tâm tìnhsâu lắng, trách móc, giận hờn, đau buồn, xót xa, nói bóng gió, hồn nhiên vui tươi:Hoa cúc vàng nở hoa cúc tím/ Em có chồng rồi trả yếm cho anh. Nếu ở đây chủ thể là chàng trai đòi lại kỉ vật thì đó là người coi trọng vật chất, so bìthiệt hơn, nhỏ nhen, xử sự không mấy ...