Rất nhiều loại thuốc có thể gây ra các tổn thương cho mắt ở những mức độ khác nhau, các tổn thương này có thể xảy ra đơn lẻ hoặc là biểu hiện của một hội chứng lớn. Đây là một trong những phản ứng phụ của thuốc xảy ra trong thực tế, chiếm khoảng 4,3% tổng số các phản ứng không mong muốn do thuốc được ghi nhận. Sự phức tạp về cấu trúc và quá trình chuyển hóa của mắt, tính đặc hiệu của cấu trúc mô mắt và sự liên quan trực tiếp của mắt với...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những loại thuốc gây tổn thương cho mắt Những loại thuốc gây tổn thương cho mắt Rất nhiều loại thuốc có thể gây ra các tổn thương cho mắt ở nhữngmức độ khác nhau, các tổn thương này có thể xảy ra đơn lẻ hoặc là biểuhiện của một hội chứng lớn. Đây là một trong những phản ứng phụ củathuốc xảy ra trong thực tế, chiếm khoảng 4,3% tổng số các phản ứng khôngmong muốn do thuốc được ghi nhận. Sự phức tạp về cấu trúc và quá trình chuyển hóa của mắt, tính đặchiệu của cấu trúc mô mắt và sự liên quan trực tiếp của mắt với hệ thần kinhtrung ương là những yếu tố cơ bản làm cho mắt trở nên nhạy cảm với độctính của thuốc và tạo ra sự đa dạng của các phản ứng phụ ở mắt. Trong thựctế, việc phát hiện các phản ứng phụ này có thể gặp nhiều khó khăn do nhầmlẫn với quá trình lão hoá hoặc các bệnh lý đi kèm ở mắt (như tổn thương mắttrong bệnh tiểu đường). Để tránh bỏ sót, cần khai thác kỹ tiền sử dùng thuốccủa người bệnh và luôn đề cao cảnh giác với các phản ứng phụ trên mắt củathuốc. Cơ chế: thuốc có thể gây ra nhiều loại bất thường về chức năng củamắt tùy thuộc vào diện tác động của nó. Thuốc gây giảm tiết nước mắt sẽdẫn đến khô mắt, cảm giác khó chịu ở mắt hoặc viêm kết mạc nhiễm khuẩn,trường hợp nặng có thể gây loét, sẹo giác mạc. Một số thuốc có thể tác độnglên thủy tinh thể của mắt gây lắng đọng, đục thủy tinh thể, thay đổi quá trìnhhydrat hóa của thủy tinh thể hoặc tác động trên hệ thần kinh phó giao cảmchi phối vận động của thủy tinh thể. Một số thuốc lại có thể gây tăng nhãnáp, dẫn đến bệnh glôcôm. Một số thuốc và hóa chất thậm chí có thể phá hủycác cấu trúc thần kinh của mắt như các thụ cảm thể nhận cảm ánh sáng, cácneuron thần kinh của võng mạc hoặc dây thần kinh thị giác gây mù vĩnhviễn. Các biểu hiện thường gặp và nguyên nhân Viêm loét kết – giác mạc và khô mắt: viêm loét kết - giác mạc thườnggặp trong 2 hội chứng dị ứng thuốc nặng nhất là Stevens-Johnson và Lyell.Trong các hội chứng này, người bệnh bị nổi các bọng nước trên da kết hợpvới viêm loét niêm mạc mắt, miệng, bộ phận sinh dục... Tổn thương mắt xảyra ở khoảng 80 – 90% số bệnh nhân Stevens-Johnson và Lyell, trong đó 35%gây các di chứng mờ đục, sừng hoá và tăng sinh mạch máu ở giác mạc gâymù vĩnh viễn, khô mắt kéo dài do sẹo kết mạc và tắc ống lệ hoặc lông quặm.Có khoảng hơn 200 loại thuốc khác nhau có thể gây ra các hội chứng này,thường gặp nhất là các kháng sinh (nhóm bêta lactam, sulphamide,tetracycline), carbamazepine, aminazine, lamotrigine và thuốc Đông y. Cácthuốc có tác dụng kháng cholinergic (như atropine) có thể gây giảm tiếtnước mắt, làm cho mắt có cảm giác đau nóng rát và ngứa. Các thuốc chẹnbêta giao cảm như propranolol được ghi nhận có thể gây mờ mắt, khô mắt vàgiảm tiết nước mắt trong một số ít trường hợp, nếu nhỏ mắt có thể gây cảmgiác đau rát, nhức, ngứa mắt, đỏ mắt và khô mắt. Isotretinoin cũng có thểgây khô mắt, viêm kết mạc và đục giác mạc ở một số bệnh nhân. Các thuốcchữa loãng xương nhóm bisphosphonate như alendronic acid cũng có thểgây khô và đỏ mắt, viêm mống mắt, viêm kết mạc và viêm thần kinh thị Một số thuốc như amiodarone, muối vàng,giác. chloroquine,chlorpromazine, hydroxychloroquine, indometacin, tamoxifen và adrenalinenhỏ mắt có thể lắng đọng ở biểu mô giác mạc hoặc thủy tinh thể gây ảnhhưởng đến thị lực. Đục thủy tinh thể: glucocorticoid (như prednisolon, dexamethsone...)là nhóm thuốc thường gặp nhất gây đục thủy tinh thể. Tai biến này có thểxảy với cả đường uống, đường tiêm truyền và nhỏ mắt của glucocorticoid,thường sau một quá trình dùng thuốc kéo dài, không hồi phục và đòi hỏiphải thay thế. Một số thuốc khác như busulfan, nitrogen mustards,isotretinoin và phenytoin cũng được ghi nhận có thể gây đục thủy tinh thể. Tăng nhãn áp và bệnh glôcôm: glucocorticoid đường uống, tiêmtruyền và đặc biệt là đường nhỏ mắt có thể gây tăng nhãn áp và bệnh glôcômsau một vài tuần điều trị ở khoảng 30% số bệnh nhân. Ngưng hoặc giảm liềuglucocorticoid thường giúp giảm nhãn áp. Các thuốc kháng cholinergic đượcghi nhận có thể gây glôcôm góc đóng ở một số người nhạy cảm. Pilocarpine,mặc dù thường được dùng để điều trị glôcôm, cũng có thể gây glôcôm gócđóng cấp tính. Phá hủy thần kinh và võng mạc: digoxin có thể gây độc trực tiếp cácthụ cảm thể nhận cảm ánh sáng, dẫn đến mờ mắt, quáng mắt, đôi khi gây mùthoáng qua. Các thuốc chống sốt rét như hydroxychloroquin, nếu dùng kéodài có thể gây nhiễm độc võng mạc, nguy cơ phụ thuộc vào tổng liều dùngcủa thuốc. Biểu hiện là nhìn nhòe với một số điểm mù trong thị trường và rốiloạn nhận biết màu sắc. Tamoxifen, nhất là ở liều cao, có thể gây đục thủytinh thể và bệnh lý võng mạc. Ethambutol và isoniazid (2 loại thuốc chốnglao) có thể gây viêm, teo thần kinh thị giác dẫn đến mù vĩnh viễn tro ...