Thông tin tài liệu:
Tuy rằng nhiều nhà hóa học tiên phong từ thời cổ Hy Lạp, cổ Ai Cập đến thời kì A rập, Ba Tư có đóng góp cơ bản cho ngành nhưng ông Antoine Lavoisier mới được xem là người khai sinh hóa học hiện đại. Người Hồi giáo thuộc khu vực A rập đã dịch nhiều công trình cổ Hy lạp sang tiếng A rập, họ cũng thử nghiệm một số ý tưởng theo phương pháp khoa học. Dù đã biết là phương pháp khoa học hiện đại được phát triển dần dần và tương đối chậm nhưng vài nhà...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những nhà Hóa học tiên phong Những nhà Hóa học tiên phongTuy rằng nhiều nhà hóa học tiên phong từ thời cổ Hy Lạp,cổ Ai Cập đến thời kì A rập, Ba Tư có đóng góp cơ bản chongành nhưng ông Antoine Lavoisier mới được xem làngười khai sinh hóa học hiện đại.Người Hồi giáo thuộc khu vực A rập đã dịch nhiều côngtrình cổ Hy lạp sang tiếng A rập, họ cũng thử nghiệm mộtsố ý tưởng theo phương pháp khoa học. Dù đã biết làphương pháp khoa học hiện đại được phát triển dần dần vàtương đối chậm nhưng vài nhà hóa học Hồi giáo như ôngJabir ibn Hayyan (ở châu Âu gọi là ông “Geber”), đã bắtđầu sử dụng phương pháp khoa học trong hóa học từ thế kỉthứ 9, và ông được đa số xem là “ông tổ ngành hóa học”.[ Ông đưa ra cách tiếp cận có hệ thống dựa trên thực nghiệmtrong quá trình nghiên cứu khoa học, và sáng tạo ra nồichưng cất, phân tích thành phần hóa học nhiều chất, phânbiệt kiềm và axit, bào chế nhiều loại thuốc.Nhiều nhà hóa học Hồi giáo khác cũng có ảnh hưởng quantrọng, như Jafar al-Sadiq, Alkindus, Abū al-Rayhān al-Bīrūnī, Avicenna cũng như Ibn Khaldun đều phản bác thuậtgiả kim và lý luận kiểu hòn đá của triết gia về sự chuyểnđổi của kim loại; còn Tusi đưa ra định luật bảo toàn khốilượng ở dạng sơ khai khi ông cho rằng vật chất chỉ thay đổitrạng thái chứ không biến mất. Ông Rhazes là người đầutiên bác bỏ thuyết của Aristotle về bốn nguyên tố vật chấtcơ bản, cũng là một trong những người đặt nền tảng chohóa học hiện đại qua việc sử dụng phòng thí nghiệm kiểunhư ngày nay, thậm chí ông đã tạo ra hơn 20 dụng cụ thínghiệm mà phần nhiều vẫn còn được dùng đến giờ.Từ khi nhiều tác phẩm giả kim thuật từ thế giới A rập đượcdịch sang tiếng Latin một số nhà giả kim nghiêm túc ở châuÂu đã theo đuổi môn này có định hướng và ngày càng làmtốt hơn. Như ông Paracelsus (1493-1541) đã bác bỏ thuyếtbốn nguyên tố của Aristotle và chỉ bằng kiến thức về hóachất và thuốc của mình đã tạo ra một môn kết hợp giả kimvà khoa học, dù ông chưa làm cho những thí nghiệm củabản thân có tính khoa học đầy đủ hơn. Lý thuyết mở rộngcủa ông chỉ ra cách tạo chất mới từ thủy ngân và lưu huỳnhmà ông gọi là dầu lưu huỳnh. Có lẽ đây chính là chấtdimethyl ether ngày nay, vốn chẳng có thủy ngân lẫn lưuhuỳnh.Những cố gắng cải tiến phương pháp lọc tách quặng lấykim loại là nguồn thông tin quan trọng với nhiều nhà hóahọc tiên phong, chẳng hạn ông Georg Agricola (1494–1555) có tác phẩm kinh điển De re metallica ấn hành năm1556 bàn về vấn đề này. Ông đã lược bỏ những yếu tố kì bítrong ngành và đưa ra nền tảng thực hành để người khác cóthể làm theo. Tác phẩm này đề cập nhiều loại lò nấu quặng,tạo ra sự quan tâm nghiên cứu về khoáng chất cũng nhưhợp chất của chúng.Năm 1605 ông Francis Bacon công bố tác phẩm TheProficience and Advancement of Learning được coi là mởđầu cho lý thuyết về phương pháp khoa học. [20] Năm 1615Jean Beguin công bố tác phẩm Tyrocinium Chymicum làgiáo trình hóa học thuộc loại đầu tiên có nêu ra khái niệmphản ứng hóa học.Ông Robert Boyle (1627–1691) được xem là người xác lậplại phương pháp có tính khoa học cho ngành giả kim, đồngthời làm cho ngành hóa học không chỉ dừng ở thuật giả kimnữa mà tách biệt ra và phát triển mạnh thêm. Ông theonguyên tử luận nhưng thích gọi “nguyên tử” là corpusclethay cho atoms. Ông nhận định rằng ở mức độ nhỏ nhất củavật chất là nguyên tử thì tính chất của chúng được duy trìchứ không biến đổi. Ông còn phát minh ra định luật Boyle,viết tác phẩm kinh điển The Sceptical Chymist có bàn đếnthuyết nguyên tử của vật chất.Robert Boyle (1627–1691)Năm 1754 Joseph Black tách được khí carbon dioxide màông gọi là “không khí cô đặc”. Carl Wilhelm Scheele vàJoseph Priestly độc lập nhau tìm ra khí ôxi mà họ gọi là“khí cháy”. Joseph Proust đưa ra định luật xác nhận cácnguyên tố kết hợp nhau theo một tỉ lệ nguyên làm thànhhợp chất. Năm 1800 ông Alessandro Volta là người đầutiên chế ra pin và thiết lập quy tắc cho môn điện hóa học.Năm 1803 John Dalton nêu định luật Dalton mô tả quan hệgiữa các thành phần trong một hỗn hợp khí cùng ảnh hưởngcủa áp suất từng loại lên tổng thể hỗn hợp. Ở Nga, ôngMikhail Lomonosov là người khai mở ngành hóa học đồngthời bác bỏ lý thuyết quá trình cháy và nêu ra thuyết độnghọc chất khí. Ông xem nhiệt là một loại chuyển động, đềxuất ý tưởng về định luật bảo toàn vật chất. ...