Danh mục

Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 3

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 123.05 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Dân địa phương từ lâu đã biết các đào đìa. ở vùng cỏ hoang hoặc giữa rừng tràm, cá rút xuống đìa mà sống. Và khi đã quen thói, hằng năm cá lên rừng vào mùa mưa, trở về rạch, về đìa khi mùa nắng bắt đầu. Nhiều đìa cá của dân làng đào sẵn trong rừng hoang lại trở thành đìa của điền chủ vì phần đất ấy đã bị trưng khẩn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 3 Những rắc rối trong lịch sử Khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 3Dân địa phương từ lâu đã biết các đào đìa. ở vùng cỏ hoang hoặc giữa rừng tràm,cá rút xuống đìa mà sống. Và khi đã quen thói, hằng năm cá lên rừng vào mùamưa, trở về rạch, về đìa khi mùa nắng bắt đầu. Nhiều đìa cá của dân làng đào sẵntrong rừng hoang lại trở thành đìa của điền chủ vì phần đất ấy đã bị trưng khẩn.Đìa đào ở trong rừng thì nhiều cá nhưng khó đem cá về, lắm khi phải gánh cá hàngnăm bảy cây số, nếu đìa ít cá thì bỏ luôn chẳng ai thèm tát (đìa ở xa trong rừng gọilà đìa U Minh theo nghĩa là ở nơi u u minh minh, tối tăm như địa ngục, mặc dầukhông nằm trong vùng U Minh).Nhà nước bày lệ đấu thầu để thâu thuế nhiều hơn, mỗi lần đấu cho phép khai tháctrong ba năm. Điều kiện sách ghi rõ là sự “ích lợi của nông nghiệp phải trọng hơncác điều khác” nhưng trong thực tế, việc đấu thủy lợi làm giàu cho một số trunggian. Họ chia ra từng phần nhỏ rồi cho mướn lại với giá cao gấp đôi hoặc gấp ba.Để bắt hết cá, kỹ thuật hữu hiệu nhất là xây rọ với đăng sậy, tùy theo hình thể conrạch mà lựa chọn kiểu rọ thích hợp. Nhiều cuộc tranh chấp xảy ra, người đấu thủylợi nếu có thế lực thì cứ phá đập giữ nước (của kẻ khác đang làm ruộng) để cá trênruộng chạy xuống rạch, gây nạn lúa háp vì ruộng bị cạn quá sớm. Hoặc người khaithác thủy lợi làm cản trở lưu thông, ngăn cản không cho câu cá khiến người địaphương ăn uống khổ cực, thiếu cá làm mắm dự trữ để làm mùa. Nhiều làng đã xinquan trên bỏ việc cho thầu thủy lợi để dân làng tự do bắt cá mà ăn. Nhưng khoảndự thâu ngân sách về thủy lợi hằng năm không thể bỏ được, quan trên thường giảiquyết bằng cách bắt buộc mỗi đầu dân đóng thêm năm cắc hoặc một đồng để bùtrừ lại.Chủ đất có thế lực thường ngang nhiên đắp đập ở ngọn rạch, không cho cá xuốngkhiến người xây rọ chịu thất thâu.Dân Châu Đốc xuống Rạch Giá dạy nghề xây rọ. Dân Gò Công tới vàm biển sôngCái Lớn phổ biến việc đóng đáy (trước năm 1912).Việc thành lập làng mớiNgười nhiều vốn để mộ dân đi khẩn hoang m à dám bảo đảm sẽ đóng đầy đủ thuếthì được nhà nước chấp thuận cho lập làng mới. Đây là nguyên tắc từ thời vuachúa nhà Nguyễn mà thực dân cho áp dụng trở lại để thâu thêm thuế điền và thuếthân. Năm 1894, việc thành lập làng Vĩnh Hưng cho thấy sự xuất hiện của bọncường hào mới. Vùng đất này ở phía nam tỉnh Rạch Giá, giáp ranh Sóc Trăng. Haingười giành nhau lập làng, cả hai đều là bá hộ nổi danh thời bấy giờ, tuy là ngườiViệt nhưng gốc Hoa kiều.— Phan Hộ Biết (tục danh là bá hộ Bì) ở Bạc Liêu xin lập làng mới. Dân do ông taquy tụ sẽ lần hồi đóng thuế cho nhà nước. Ông ta đã xuất tiền túi ra xây cất xongmột nhà việc (công sở làng) trị giá 200 đồng.— Bành Trấn thì đưa kế hoạch đào kinh do chính ông xuất vốn, mướn nhân công.Lại cam kết rằng sau khi được chấp thuận lập làng thì sẽ có 150 dân công do ôngquy tụ, đóng thuế ngay (thuế này do chính ông xuất ra cho dân mượn trước). Vàtuy đất chưa thâu hoạch huê lợi, ông sẵn sàng chịu thuế điền 1500 mẫu, đóng ngaycho nhà nước. Nếu nhà nước chịu cho đứng tên làm chủ 1000 mẫu đất thì ông tahứa bảo đảm đóng thuế cho 300 người trong những năm tới. Theo lời trong đơn,vùng này còn nhiều voi và trộm cướp, lập làng thì đất trở thành tốt, thú rừng vàbọn bất lương không còn lai vãng. Kế hoạch của Bành Trấn được Thống đốc Namkỳ chấp thuận vì Bành Trấn vào đơn trước hơn Phan Hộ Biết. Nhưng lý do vẫn làvì Bành Trấn chịu đóng thuế ngay, làng Vĩnh Hưng trở thành một tiểu quốc củaBành Trấn, ông ta bèn bắt buộc bọn tá điền trả lại tiền thuế thân đã ứng trước, rồicho vay nặng lời. Rốt cuộc tất cả dân trong l àng trở thành tá điền, chẳng ai làmchủ mảnh đất lớn nhỏ nào cả. Đến năm 1911, nhà nước mới can thiệp vì lập làngnhư vậy là thất nhân tâm, có lợi cho cá nhân đứng lập làng nhưng hại cho nhànước.Bởi vậy, khi cho lập làng Ninh Quới vào năm 1913, viên phó tham biện đặc tráchquận Long Mỹ đã tổng kết kinh nghiệm và nhận định về việc bầu cự các hươngchức hội tề :— Trong ban hội tề, chức vụ xã trởng là quan trọng hơn hết, viên chức này giữmộc ký (triện) của làng. Xã trưởng lựa người thân tín, cho làm chức hương xã, rồiđến chức hương thân, hương hào. Những chức vụ còn lại thì do xã trưởng nêu điềukiện, ai muốn làm thì cứ thương thuyết, lo hối lộ cho ông ta. Đây là tình trạng lậplàng mà không có bầu cử về hình thức.— Nếu bày ra hình thức bầu cử, chỉ một thiểu số điền chủ được ứng cử và cóquyền bầu mà thôi. Dân làng không được tham khảo ý kiến. Và dân chỉ muốn cuộcbầu cử diễn ra thật nhanh, ai làm cũng được, để họ biết ai là người nhận tiền thuếmà họ phải đóng.— Khi lập làng mới, công việc đầu tiên của hương chức là bắt buộc dân phải kýgiấy nợ, trả lại cho họ những sở phí lập làng (tiền mua bộ sổ, tiền mua tặng phẩmđể hối lộ cho quan trên). D ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: