Danh mục

Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 4

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 129.11 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trường hợp một làng khác ở quận Long Mỹ, có viên chức cho 17 người Miên đến khẩn đất. Họ lo bắt cá, đốn củi, sau bão lụt năm Thìn, cây rừng ngã xuống mới bắt đầu làm ruộng. Khi đất dọn xong thì mới hay rằng viên chức nói trên đã làm đơn xin khẩn chồng lên phần đất ấy từ trước, có biên lai. Cũng may là vụ này được giải quyết êm đẹp, dành ưu tiên cho người Miên vì họ chịu cực khai phá từ trước. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 4 Những rắc rối trong lịch sử Khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 4Trường hợp một làng khác ở quận Long Mỹ, có viên chức cho 17 người Miên đếnkhẩn đất. Họ lo bắt cá, đốn củi, sau bão lụt năm Thìn, cây rừng ngã xuống mới bắtđầu làm ruộng. Khi đất dọn xong thì mới hay rằng viên chức nói trên đã làm đơnxin khẩn chồng lên phần đất ấy từ trước, có biên lai. Cũng may là vụ này được giảiquyết êm đẹp, dành ưu tiên cho người Miên vì họ chịu cực khai phá từ trước.Trường hợp làng quá rộng như làng Đông Thái dài 30 cây số, dân đến cư ngụ lầnhồi, khi đủ số thì những ấp ở xa trở thành làng mới, tách ra lập thêm ba làng làĐông Hưng, Đông Hòa và Đông Thạnh từ năm 1914.Lắm khi vì muốn kiểm soát an ninh ở mấy ấp hẻo lánh, nhà nước chấp thuận chotạm lập một làng mới. trong giai đoạn sơ khởi, lúc quan kinh lý chưa đến phânranh thì hương chức không được thâu thuế, chỉ được xử kiện những vụ nhỏ và sắpđặt dân canh phòng mà thôi : làng Thạnh Lợi tách ra khỏi làng Thạnh Hưng tháng11/1912.ở những làng quá đông người Miên, hương chức hội tề có thể ký tên bằng chữMiên và điều kiện để làm hương chức không cần là phải biết chữ quốc ngữ. Quantrọng nhứt là chức xã trưởng, chỉ dành cho người hằng sản để có thể bồi thườngcho nhà nước trong trường hợp làm sổ sách sai lạc hoặc gian lận thuế, lấy tiềncông nho để cho vay nợ riêng, hoặc cờ bạc thua. Người biện làng (thơ ký, nhânviên riêng của xã trưởng) lãnh trách nhiệm viết lách, thảo đơn từ, phúc bẩm báocáo.Việc lựa chọn vài người háo danh và khờ khạo để làm hương chức lắm khi là dụngỳ của những tay có thế lực để dễ dàng thao túng. Tệ đoan lớn ở mấy làng xa quậnlỵ là nạn cờ bạc, chứa chấp bọn trộm cướp do hương chức làng chủ mưu và chiaphần. Nhiều ông điền chủ không thèm vào ban hội tề, khi cần thế lực thì dựa vàoquan trên hoặc đứng ngoài, sắp xếp tay em của họ vào làm hội tề là đủ rồi.Trong những làng mà đất đai đều do người Pháp làm chủ, về mặt hình thức thìngười Việt Nam vẫn cai trị lẫn nhau nhưng hương chức chỉ là tay sai. Khôi hàinhứt là những báo cáo của làng gởi lên cấp trên : nếu là trên lãnh thổ của điền Tâythì phải có chữ ký của chủ điền hoặc của người quản lý thì mới có giá trị. Người“chủ điền Tây” có quyền thị thực chữ ký hoặc xác nhận sự kiện trong công văncủa làng. Trong điền của Pháp, việc cử hương chức hội tề (chỉ định thì đúng hơn)không theo tiêu chuẩn là có hằng sản vì tìm đâu ra một người có hằng sản ! Năm1911, vào tháng 9, hương chức làng báo cáo khi chủ quận ra lịnh cử một ngườithay thế cho vị hương chủ vừa chết : “Ông A. Isidore mới lập làng, dân làng làngười nghèo nàn và các nơi tới mướn đất làm ruộng cấy, lúa tốt thì nó ở, lúa xấuthì nó trốn đi, dân không có vườn đất tại làng. Xin đình lại tháng Décembre nhằmmùa lúa trổ, làng xét lại lúa ai tốt là người khá trong làng và lựa người xứng đánglàng mới dám cử”.Vài nét lớn về điền của PhápCần nhớ là bấy giờ ở Nam kỳ, danh từ đồn điền không đ ược xài tới vì gợi ý nghĩkhông tốt, trùng hợp với những đồn điền thời đàng cựu mà Pháp chánh thức giảitán (dân đồn điền thường là dân làm loạn khi người Pháp mới đến). Gọi là điền,kèm theo tên của người chủ, thí dụ như điền ông La—bách (Labaste) hoặc tên tụcnhư điền ông Kho (Gressier), hoặc khôi hài hơn : điền Tây Mập, điền Tây Tàu (tênnày có tàu riêng để chở lúa) hoặc điền Tây Đầu Đỏ (tóc đỏ). Nếu l à của công ty thìgọi là điền hãng. Người làm chủ đất thì gọi là điền chủ (gọi “địa chủ” nghe khôngthanh tao, theo lối nói lái của người miền Nam). Chủ ruộng là người canh tác trênđất mướn của người khác. Tá điền là người mướn đất làm ruộng (không gọi là dâncày, vì dân chúng bấy giờ cho là trâu mới cày, người đâu phải trâu mà cày).Thoạt tiên, nhà nước định hễ người Pháp hoặc người Việt có quốc tịch Pháp khaithác trên mười mẫu thì được hoàn toàn miễn thuế trong 5 năm liền; đến năm thứ 6là bắt đầu đóng 1/5 số thuế, cứ như vậy đến năm thứ 10 là đóng trọn. Nghị địnhngày 4/1/1894 sửa đổi lại không miễn thuế 5 năm đầu, ngay trong năm đầu đóngsố 1/5 thuế, đến năm thứ 5 là đóng trọn. Nghị định 13/4/1909 cho phép nhữngngười Pháp có trên 80 tá điền và khai thác một diện tích ít nhứt là 400 mẫu đượcquyền lập riêng một làng mới, nếu chủ điền yêu cầu, dân trong điền được hưởngquy chế “dân điền Tây”.Với nhiều ưu đãi vừa kể, thực dân Pháp tha hồ làm mưa làm gió. Trước khi cónghị định trên, từ năm 1906 ở Rạch Giá đã xảy ra một vụ lập làng mới lấy tên làVĩnh Báu, trên địa phận của làng Vĩnh Viễn. Chủ điền là trạng sư Doutre chongười quản lý (gọi nôm na là cặp—rằn) đem 70 dân đến lãnh thổ vừa được phéptrưng khẩn để lập làng mới. Hương chức hội tề địa phương can thiệp vì chưa cólịnh chánh thức của quan trên. Người quản lý này (người Việt) cứ ra lịnh tiếp tụccất công sở mới và xúi dục tá điền cầm dao rượt chém hươn ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: