Danh mục

Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 127.40 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Người Miên khổ cực hơn người Việt. Trong những địa phương người Miên quá đông, hương chức làng đa số là người Miên. Họ bị cai trị hteo lối phong kiến đặc sệt. Khi bị đòi tới làng, tới quận là họ sợ bị tù. Khi cần hợp thức hóa đất ruộng mà họ dày công khai phá, họ lại vắng mặt. Họ ít khi dám đòi hỏi quyền lợi chánh đáng, thà chịu thua thiệt mà được ở nhà. Thực dân Pháp khinh thường người Miên ra mặt. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp Những rắc rối trong lịch sử Khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 8Người Miên khổ cực hơn người Việt. Trong những địa phương người Miên quáđông, hương chức làng đa số là người Miên. Họ bị cai trị hteo lối phong kiến đặcsệt. Khi bị đòi tới làng, tới quận là họ sợ bị tù. Khi cần hợp thức hóa đất ruộng màhọ dày công khai phá, họ lại vắng mặt. Họ ít khi dám đòi hỏi quyền lợi chánhđáng, thà chịu thua thiệt mà được ở nhà.Thực dân Pháp khinh thường người Miên ra mặt. Trừ một số ít người mang họ(Sơn, Thạch...) do ông bà truyền lại từ đời Tự Đức, hoặc lai Tàu (họ Trần, họ Lýnhưng không có chữ lót) thì tất cả đều không họ. Trong bộ sổ, cứ gọi tên này tênkia (Danh), đàn bà thì gọi là Thị.Trong công tác khẩn hoang, người Miên góp công lao đáng kể. Họ làm công hoặclàm tá điền cho người Việt, dầm mưa dãi nắng rất dẻo dai, sở trường của họ làchèo ghe, đốn tràm, đào mương, tát đìa bắt cá. Đàn bà Miên giỏi về cấy và gặt lúa,gặt cấy rất kỹ lưỡng và vén khéo tuy chậm chạp. Gia đình Miên nào nghèo thì khótả : ngủ nóp, hoặc ngủ trần với bếp un, ở nơi muỗi mòng mà nhiều đứa trẻ từ khilọt lòng đến tuổi mười hai mười ba vẫn ở trần ở truồng, không biết áo quần là gì,ăn uống quá đạm bạc. Vài người đã mất đất vì ham cờ bạc, quá cao hứng lúc uốngrượu say nên sẵn sàng điềm chỉ vào bất cứ giấy nợ hoặc giấy bán đất. Về thuế thânthì mười người trốn hết bảy tám.Đặc biệt là ở Rạch Giá, người Huê kiều lại tích cực khẩn hoang với sở trường làlàm rẫy ở đất giồng ven sông Cái Lớn và Cái Bé (những giồng này gọi là thanhlang). Họ có mặt tại xứ Rạch Giá từ đời Mạc Cửu nhưng con cháu số người cố cựuấy đã trở thành Việt Nam từ lâu đời rồi. Đợt người sang cư trú khi Pháp đến gồmđa số là người Triều Châu. Theo bảng kê khai vào tháng giêng năm 1906, tỉnhRạch Giá có :Quảng Đông 266 ngườiHẹ (Akas) 17 ngườiHải Nam 331 ngườiPhước Kiến 108 ngườiTriều Châu 876 ngườiNgười Triều Châu làm rẫy cư ngụ thành xóm đông đúc, siêng năng không ai bìkịp, ăn ít, làm việc thì nhiều, bất chấp giờ giấc. Khóm (thơm) ở Tắc Cậu, khoailang ở Ngả Ba Đình, khoai lang ở Trà Bang (Long Mỹ), ổi ở Bến Nhứt một dạonổi danh toàn cõi Hậu giang. Đa số nghèo khó, không được quyền làm thừa sai đểbầu cử ông Bang vì muốn làm thừa sai thì phải có hằng sản, đứng bộ điền hoặcđóng thuế môn bài. Họ cưới vợ Việt, gặp năm rẫy thất mùa, đời sống nói chung làcơ cực vì còn phải trả tiền mướn đất rẫy.Thuế thân của Hoa kiều cao gấp ba lần thuế của người Việt. Người nào làm ănkhá, còn sức khoẻ thì Bang trưởng đứng ra bảo đảm đóng thuế giùm, sau này trảlại. Nhưng gặp trường hợp quá nghèo, đau yếu thì chẳng ai dám bảo lãnh giùm cả.Thiếu thuế nhiều năm liên tiếp, theo luật là bị trục xuất về Trung Hoa. Người thiếuthuế 4 năm nếu bị bắt thì phải đóng 62 đồng, cộng thêm 30 đồng tiền phạt. Một sốlàm ăn thất bại, trốn xuống tàu buồm Hải Nam mà đến xứ khác như qua Xiêm, MãLai, rủi bị trục xuất về Tàu thì xảy ra cảnh chồng Bắc vợ Nam. Huê lợi về rẫykhông được bền, sau năm bảy năm, họ trồng các loại khác, kém huê lợi hơn vì đấtlần lần mất chất màu mỡ. Người quá nghèo không còn bà con bên Tàu thì cố gắngở lại xóm rẫy. Trong trường hợp thiếu thuế, họ đành tự giam hãm trong làng, lohối lộ từng chập cho hương chức hội tề để khỏi bị bắt. Hoặc dời chỗ, cải trang nhưtrường hợp của người mang tên là Trần Văn Sơn, 60 tuổi, người Triều Châu để búitó, mặc quần áo như người Việt Nam bị bắt vào tháng chạp 1914 ở Gò Quao vì bịtình nghi là theo Thiên Địa Hội. Ông này khai thật rằng qua Việt Nam hồi năm 38tuổi, ở Bạc Liêu làm ăn 3 năm, ở Cần Thơ 8 năm, ở Cà Mau 3 năm, ở Rạch Giá từ3 năm qua nhưng rốt cuộc làm ăn không khá, đành mua tấm giấy lão của ngườiViệt tên Phạm Văn Lê. Vì sợ tung tích bại lộ nên ông ẩn lánh ở sốc người miên.Về tình trạng của nông dân nghèo năm 1908, nhà cách mạng Trần Chánh Chiếucũng là điền chủ lớn ở Rạch Giá đã viết bài đăng trên tờ Lục Tỉnh Tân Văn số 42,tháng 9/1908 (hai tháng sau là ông bị bắt vì việc vận động Đông Du). Bài lấy haicâu thơ “Nhị ngoạt mại tân ti. Ngũ ngoạt khiếu tân cốc” làm nhan đề.Người Nhiếp di Trung làm bài thơ Mảng Nông có câu thơ rằng : tháng hai bán tơmới, tháng năm bán lúa sớm, cắt thịt vá ghẻ nghĩa là đở ngặt vậy chớ khổ cũnghoàn khổ.Thương hại cho dân nghèo ra thân đi làm tá điền, vì trong tay không có nghề sảnnên mới chui đụt đỡ giấc, nói tiếng làm ruộng chớ kỳ trung đi kiếm ăn cho quangày tháng. Làm ruộng gì mà mãn nhứt đại không có dư một hột lúa dính tay, lẽthì ba năm làm mới có một năm thiếu ăn, có đâu hụt trước thiếu sau, lúa gặt vừarồi đã đi lãnh ruộng giao, lãnh công cấy công phát.Một năm 12 tháng, làm ruộng thật sự có bốn năm tháng còn bảy tám thán dư linhlàm nghề chi ? Vì không có nghề trong tay nên mới rủ nhau đánh cờ chó, hoặc đicoi đánh cờ bạc, chà lết mòn q ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: