Danh mục

Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 7

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 125.44 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Theo đề nghị của chủ tỉnh, Thống đốc Nam kỳ cách chức viên cai tổng và phó tổng tổng Kiên Tường (cả hai đều là người Miên) về tội phao tin thất thiệt là hoàn toàn miễn thuế. Thật ra, nhà nước chỉ chấp nhận miễn phần thuế quản hạt (budget local) mà thôi, chớ vẫn thâu trọn phần địa hạt và bách phân phụ trội. Thống đốc lại cho một viên chủ tỉnh nhiều năng lực là Albert Lorin nghiên cứu vấn đề....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 7 Những rắc rối trong lịch sử Khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 7Theo đề nghị của chủ tỉnh, Thống đốc Nam kỳ cách chức viên cai tổng và phótổng tổng Kiên Tường (cả hai đều là người Miên) về tội phao tin thất thiệt là hoàntoàn miễn thuế. Thật ra, nhà nước chỉ chấp nhận miễn phần thuế quản hạt (budgetlocal) mà thôi, chớ vẫn thâu trọn phần địa hạt và bách phân phụ trội.Thống đốc lại cho một viên chủ tỉnh nhiều năng lực là Albert Lorin nghiên cứuvấn đề. Lorin phúc trình rằng Rạch Giá có 6 tổng, mỗi tổng đều quá rộng nên khótheo sát từng điền chủ để làm áp lực. Trong vòng hai năm mà ở Rạch Giá lại thayđổi 4 lần chủ tỉnh nên chánh sách không được liên tục. Theo ý kiến của Lorin, chỉnên giảm thuế cho chủ điền nhỏ, chớ chủ điền lớn thì vẫn còn dư tiền để mua đất,khẩn đất thêm : Hiện tại, ở tòa Bố Rạch Giá còn đến 439 đơn xin khẩn một diệntích là 14.031 mẫu, chứng tỏ điền chủ bốn xứ hãy còn hăng hái trong việc làm ăn.Năm 1911, tỉnh Rạch Giá trải qua một cơn mất mùa trầm trọng, nhà nước đànhcứu xét miễn thuế, tuy miễn ít nhưng những ai lì lợm thì cũng bỏ luôn.Cuộc tranh đấu trên đã bộc lộ một sự thật khách quan : vào năm 1905, giai t ừngđiền chủ đã thành hình, có tinh thần chống Pháp nhứt là vào những năm kế tiếpkhi đa số điền chủ lớn ở Nam kỳ đều hưởng ứng cuộc Minh Tân (phong trào DuyTân) do Bùi Chi Nhuận và Trần Chánh Chiếu điều khiển, ủng hộ ông Phan BộiChâu và ông Cường Để. Điền chủ trong nước thấy rõ là thực dân pháp ngăn cảnkhông cho họ tiến xa hơn để họ tự do kinh doanh, trở thành những chủ xưởng,những thương gia như ở bên Nhựt. Thực dân Pháp, thương gia Huê kiều (nắm độcquyền về mua bán, thao túng giá lúa gạo). ấn kiều cho vay đều l à những chướngngại mà họ muốn san bằng.Còn vài chi tiết cần ghi nhớ về vai trò của giới điền chủ, không riêng gì cho tỉnhRạch Giá :— Mua nhiều trâu bò từ Cao Miên đem về (từ tỉnh Tà—Keo) nhờ đó mà việc càycấy thêm phát triển. Mua sắm nhiều ghe độc mộc từ sông Lớn (Cao Miên, Lào)giúp phương tiện vận tải.— Thích sống xa hoa theo lối Pháp, tiêu thụ rất nhiều hàng hóa nhập cảng, nhất làrượu Tây.— Vào những năm lúa có giá và giá lúa được vững (1928, 1929 luôn cả năm1930), mức sống lên cao tột bực, điền chủ bực trung ở Hậu giang dư sức cho conqua Pháp du học, có gia đình đi cả hai ba người, học siêng năng thì thành bác sĩ;ăn chơi thì trở thành “công tử”.— Một số không nhỏ điền chủ ở Rạch Giá là người Minh Hương hoặc Huê kiều.Người Huê kiều nếu làm điền chủ thì bị đồng hóa, trở thành Việt Nam trong vàinăm (khăn đóng áo dài khi làm hương ch ức hội tề, cúng đình). Riêng người Huêkiều ở chợ chuyên nghề buôn bán thì giữ nếp sống riêng.Về đời sống của tá điềnTá điền chẳng có quyền tham dự sinh hoạt chính trị nào cả. Hương ấp, phó quản(gọi là hương chức nhỏ) do hương chức hội tề chỉ định. Hương chức làng thì dobọn hương chức chọn lựa lẫn nhau, giới thiệu bà con vây cánh, sau đó được caitổng và chủ quận chuẩn y. Cai tổng và phó tổng, ban biện được cử do một số thừasai (người thay mặt); tùy theo số dân bộ mà mỗi làng được gởi nhiều hay ít, đổđồng 50 dân bộ có một người. Các vị thừa sai thay mặt cho dân phải là hươngchức làng (trừ xã trưởng, hương thân, hương hào), phó xã hoặc điền chủ. Hội đồngcanh nông, hội đồng địa hạt hoặc hội đồng quản hạt là chuyện riêng của một sốhương chức làng và điền chủ đi bầu. Tóm lại, người dân nghèo chẳng bao giờđược đi bầu cử ai cả.Hai gánh nặng cho tá điền là thuế thân và xâu (sưu). Thuế thân thời Pháp thuộcđược quy định đồng đều (trừ những năm sau cùng của chế độ thực dân, chia rangười có hằng sản và người không có hằng sản). Thuế chánh chỉ là mọt đồng bạcnhưng dân phải đóng thêm một số tiền gọi là bách phân phụ trội cho ngân sách. Sốbách phân này thay đổi tùy theo năm để cho ngân sách được quân bình chi tiêu.Ngoài ra mỗi người phải chịu năm ngày làm xâu, có thể chuộc bằng tiền, lại cònphụ thâu về thủy lợi, về rừng.Nếu là dân ở xa tới, chưa vào bộ thì đóng thêm một số tiền gọi là thuế dân ngụ.Tính trung bình vào những năm đầu thế kỷ, thuế thân cọng thêm các khoản linhtinh vừa kể là 5 đồng, làng này đóng nhẹ nhưng làng kia lại đóng nặng. Nên nhớ làlúc bấy giờ lúa bán vài cắc một giạ, một đứa trẻ chăn trâu suốt năm chỉ đượckhoảng 10 đồng thôi. Có làng lại đặt ra thuế nóc gia hoặc quy định tiền chuộccông sưu (đóng tiền để khỏi đi làm sưu) với giá quá cao, thí dụ trường hợp làngVĩnh Hòa Hưng, tổng cộng là 8 đồng 3 xu về thuế thân, năm 1914.Số đông tá điền không đóng nổi thuế thân hoặc không muốn đóng vì suốt năm họkhông có việc gì để đi ra khỏi làng. Thỉnh thoảng lính mã tà vào làng xét hỏi, dânlậu thuế (gọi là trốn xâu lậu thuế) chạy trốn ngoài ruộng hoặc vô rừng mà ẩn náu.Bị bắt về tội thiếu thuế thân là 5 ngày tù với 15 quan phạt vạ. Khi mản tù phảiđóng thuế ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: