NHỮNG TỔN THƯƠNG CƠ
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 122.20 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tổn thương cơ xương có thể do kết quả của cả hai loại điều kiện chấn thương (ví dụ: đụng dập) và không chấn thương (ví dụ như sự căng thẳng cơ học) và có thể gồm sự huỷ hoại cơ thể, sự phá vỡ mô liên kết, rách hoàn toàn cơ huỷ hoại mạch máu và đôi khi có tổn thương thần kinh. Chuột rút cơ Chuột rút cơ bình thường là phổ biến trong thời gian luyện tập và thường xảy ra cả với người trẻ khoẻ không phải là vận động viên. Chúng thường xuất hiện...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHỮNG TỔN THƯƠNG CƠ NHỮNG TỔN THƯƠNG CƠ Tổn thương cơ xương có thể do kết quả của cả hai loại điều kiện chấnthương (ví dụ: đụng dập) và không chấn thương (ví dụ như sự căng thẳng cơhọc) và có thể gồm sự huỷ hoại cơ thể, sự phá vỡ mô liên kết, rách hoàn toàncơ huỷ hoại mạch máu và đôi khi có tổn thương thần kinh. Chuột rút cơ Chuột rút cơ bình thường là phổ biến trong thời gian luyện tập vàthường xảy ra cả với người trẻ khoẻ không phải là vận động viên. Chúngthường xuất hiện ở cơ bắp chân và nguyên nhân còn chưa chắc chắn. Chúngthường xảy ra sau khi co của cơ rút ngắn. Chuột rút thường do sự tụ lạithành bó từ một điểm tới nhiều điểm phân biệt trong cơ và chạy trong cơtheo mô hình không quy tắc. Các nghiên cứu bằng phép ghi điện cơ cho thấysự co giật ở một điểm tiếp theo đó phát ra hàng loạt trong nhiều sợi cơ.(Denmy- Brown, 1953). Hoạt động điện cho thấy toàn bộ đơn vị vận độngđều tham dự và vì thế nguồn ban đầu nằm ở trong sợi thần kinh vận độngchứ không phải trong bản thân từng sợi cơ. Các nghiên cứu về thể dục chủ yếu xem xét các vận động viên daisức. Manghan (1986) theo dõi 90 người tham gia chạy maratong ở Aberdeen1982 và đã phát hiện thấy không có sự liên quan giữa trạng thái dùng nướcvà sự thăng bằng chất điện ly và tỷ lệ mắc chuột rút cơ. Ở một nhóm nghiêncứu khác Kantorowska và cộng sự (1990) đã theo dõi các vận động viên ởgiải quán quân Ironmam 1989. Mặc dù điều kiện môi trường nặng hơn trongnghiên cứu của Manghan, không có mối quan hệ giữa mất nước và tỷ lệ mắcchuột rút cơ. Ra mồ hôi nhiều quá hay đi tiểu nhiều quá có thể gây mất muối và cóthể sinh ra chuột rút. Những bệnh nhân suy thận do thẩm tách máu kéo dàithường bị chuột rút cơ. Những điều kiện này có thể liên quan đến sự giảmnồng độ Natri và cho dùng dung dịch muối đôi khi rất có ích. Mức độ thấpcủa canxi hay magnếi trong huyết thanh đôi khi có liên can. (Denny-Brown,1953) Các rối loạn thành phần ion không nhất thiết có trong chuột rútcơ sau khi luyện tập. Về lâm sàng chuột rút cơ có thể thường chấm dứt khi kéo mạnh cơnày hay hoạt hoá cơ đối kháng. Sau khi dãn các nút và hết đau, các cơ tỏ rathay đổi tính kích thích và co cứng cục bộ trong nhiều phút sau chuột rút. Cơcũng có thể bị đau trogn vài ngày sau sự kiện đó. Điều chỉnh sự rối loạn chấtđiện giải và nwocs chắc chắn là có ích. Mặc dù, có thể bù đủ nước và các bồiphụ natri theo kinh nghiệm, nhưng giá trị của cách điều trị này chưa đượcchứng minh. Sự đau cơ xảy ra chậm Đau cơ do tập căng thẳng bài tập không quen là phỏ biến và được đặcbiệt phát sinh sau khi khỏi đau hoặc tập lại sau thời gian không luyện tậphoặc đi kèm mỏi mệt của cơ và có nguồn gốc trong sự chuyển hoá. Một cáchđiển hình sự đau cơ xảy ra chậm (DOMS = delayed – onset muselenoreness) bắt đầu nhiều giờ sau khi luyện tập và lên đỉnh diểm ngày thứ 2sau khi hoạt động. những miền đau được ghi nhận ở dọc theo gân hoặc cácchỗ nối tiếp gân với cơ. Người ta đã đưa ra một vài cơ chế bệnh lý để giải thích sự đau sảy rachậm này. nhiều khái niệm được đưa ra do Hough, người đã phân biệt sựđau có liên quan đến việc mệt mỏi ngay sau khi luyện tập, từ sự đau cơ đượcghi lại trong 1- 2 ngày luyên tập (1902). Đau chậm không nhất thiết đau saucông việc mệt nhọc hơn và các thông lệ luyện tập không gây mệt mỏi nhiều,không gây ra đau cơ chậm. Tuy nhiên, sự co rút nhịp nhàng đánh dấu bằngcường độ cao và gây mệt mỏi chút ít, duờnh như có liên quan nhiều đến sựđau chậm. Dựa vào những phát hiện này Hough dự đoán sự đau cơ xảy ra chậmcó liên quan nhiều tới số lượng sức căng tác động lên cơ hơn là với sự mệtmỏi. Asmussen ủng hộ ý kiến trên là khả năng công việc chán ngán và dolệch tâm gây sự đau cơ xảy ra chậm nhiều hơn là khi công việc tốt đẹp, mặcdù mệt mỏi nhiều hơn sinh ra do công việc tốt đẹp (1056). có thể kết luậnrằng trước hết đau là do sức nén cơ học hơn là do sự mệt mỏi và chất thảichyển hoá. Ông còn nghĩ rằng mô liên kết trong cơ chứ không phải bản chấtcác sợi trong cơ có thể là nơi tổn thương Abraham (1977) giả thiết rằng cácmô liên kết bị vỡ liên quan đến sự đau cơ xảy ra chậm, khi ông theo dõi mứcđộ hydrôxyproline trong nước tiểu là một chỉ số về mức độ phân huỷcollagen (Prockop và Sjoerdsam, 1961). Sau khi đẩy tạ, có sự tăng rõ rệthydroxyproline trong nước tiểu ở trong những đối tượng đã xuất hiện châmđau cơ. Người ta cũng đã ghi nhận mức độ cao của sự bài tiết myoglobin,nhưng mức độ cao xuất hiện cả ở hai đối tượng là những người đau phátsinh. Vì vậy có sự liên quan giữa đau cơ và với collagen. Ngược lại người tacòn thấy nồng độ acid lactic trong máu đo được từ huyết thanh không liênquan đến đau cơ xảy ra chậm do huyết tập (Amstrong 1984). Bài tập làm tăng rõ enzym cơ bắp và myoglobin trong huyết thanh,nhưng những giá trị này thường tồn tại trong giới hạn bình thường khôn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHỮNG TỔN THƯƠNG CƠ NHỮNG TỔN THƯƠNG CƠ Tổn thương cơ xương có thể do kết quả của cả hai loại điều kiện chấnthương (ví dụ: đụng dập) và không chấn thương (ví dụ như sự căng thẳng cơhọc) và có thể gồm sự huỷ hoại cơ thể, sự phá vỡ mô liên kết, rách hoàn toàncơ huỷ hoại mạch máu và đôi khi có tổn thương thần kinh. Chuột rút cơ Chuột rút cơ bình thường là phổ biến trong thời gian luyện tập vàthường xảy ra cả với người trẻ khoẻ không phải là vận động viên. Chúngthường xuất hiện ở cơ bắp chân và nguyên nhân còn chưa chắc chắn. Chúngthường xảy ra sau khi co của cơ rút ngắn. Chuột rút thường do sự tụ lạithành bó từ một điểm tới nhiều điểm phân biệt trong cơ và chạy trong cơtheo mô hình không quy tắc. Các nghiên cứu bằng phép ghi điện cơ cho thấysự co giật ở một điểm tiếp theo đó phát ra hàng loạt trong nhiều sợi cơ.(Denmy- Brown, 1953). Hoạt động điện cho thấy toàn bộ đơn vị vận độngđều tham dự và vì thế nguồn ban đầu nằm ở trong sợi thần kinh vận độngchứ không phải trong bản thân từng sợi cơ. Các nghiên cứu về thể dục chủ yếu xem xét các vận động viên daisức. Manghan (1986) theo dõi 90 người tham gia chạy maratong ở Aberdeen1982 và đã phát hiện thấy không có sự liên quan giữa trạng thái dùng nướcvà sự thăng bằng chất điện ly và tỷ lệ mắc chuột rút cơ. Ở một nhóm nghiêncứu khác Kantorowska và cộng sự (1990) đã theo dõi các vận động viên ởgiải quán quân Ironmam 1989. Mặc dù điều kiện môi trường nặng hơn trongnghiên cứu của Manghan, không có mối quan hệ giữa mất nước và tỷ lệ mắcchuột rút cơ. Ra mồ hôi nhiều quá hay đi tiểu nhiều quá có thể gây mất muối và cóthể sinh ra chuột rút. Những bệnh nhân suy thận do thẩm tách máu kéo dàithường bị chuột rút cơ. Những điều kiện này có thể liên quan đến sự giảmnồng độ Natri và cho dùng dung dịch muối đôi khi rất có ích. Mức độ thấpcủa canxi hay magnếi trong huyết thanh đôi khi có liên can. (Denny-Brown,1953) Các rối loạn thành phần ion không nhất thiết có trong chuột rútcơ sau khi luyện tập. Về lâm sàng chuột rút cơ có thể thường chấm dứt khi kéo mạnh cơnày hay hoạt hoá cơ đối kháng. Sau khi dãn các nút và hết đau, các cơ tỏ rathay đổi tính kích thích và co cứng cục bộ trong nhiều phút sau chuột rút. Cơcũng có thể bị đau trogn vài ngày sau sự kiện đó. Điều chỉnh sự rối loạn chấtđiện giải và nwocs chắc chắn là có ích. Mặc dù, có thể bù đủ nước và các bồiphụ natri theo kinh nghiệm, nhưng giá trị của cách điều trị này chưa đượcchứng minh. Sự đau cơ xảy ra chậm Đau cơ do tập căng thẳng bài tập không quen là phỏ biến và được đặcbiệt phát sinh sau khi khỏi đau hoặc tập lại sau thời gian không luyện tậphoặc đi kèm mỏi mệt của cơ và có nguồn gốc trong sự chuyển hoá. Một cáchđiển hình sự đau cơ xảy ra chậm (DOMS = delayed – onset muselenoreness) bắt đầu nhiều giờ sau khi luyện tập và lên đỉnh diểm ngày thứ 2sau khi hoạt động. những miền đau được ghi nhận ở dọc theo gân hoặc cácchỗ nối tiếp gân với cơ. Người ta đã đưa ra một vài cơ chế bệnh lý để giải thích sự đau sảy rachậm này. nhiều khái niệm được đưa ra do Hough, người đã phân biệt sựđau có liên quan đến việc mệt mỏi ngay sau khi luyện tập, từ sự đau cơ đượcghi lại trong 1- 2 ngày luyên tập (1902). Đau chậm không nhất thiết đau saucông việc mệt nhọc hơn và các thông lệ luyện tập không gây mệt mỏi nhiều,không gây ra đau cơ chậm. Tuy nhiên, sự co rút nhịp nhàng đánh dấu bằngcường độ cao và gây mệt mỏi chút ít, duờnh như có liên quan nhiều đến sựđau chậm. Dựa vào những phát hiện này Hough dự đoán sự đau cơ xảy ra chậmcó liên quan nhiều tới số lượng sức căng tác động lên cơ hơn là với sự mệtmỏi. Asmussen ủng hộ ý kiến trên là khả năng công việc chán ngán và dolệch tâm gây sự đau cơ xảy ra chậm nhiều hơn là khi công việc tốt đẹp, mặcdù mệt mỏi nhiều hơn sinh ra do công việc tốt đẹp (1056). có thể kết luậnrằng trước hết đau là do sức nén cơ học hơn là do sự mệt mỏi và chất thảichyển hoá. Ông còn nghĩ rằng mô liên kết trong cơ chứ không phải bản chấtcác sợi trong cơ có thể là nơi tổn thương Abraham (1977) giả thiết rằng cácmô liên kết bị vỡ liên quan đến sự đau cơ xảy ra chậm, khi ông theo dõi mứcđộ hydrôxyproline trong nước tiểu là một chỉ số về mức độ phân huỷcollagen (Prockop và Sjoerdsam, 1961). Sau khi đẩy tạ, có sự tăng rõ rệthydroxyproline trong nước tiểu ở trong những đối tượng đã xuất hiện châmđau cơ. Người ta cũng đã ghi nhận mức độ cao của sự bài tiết myoglobin,nhưng mức độ cao xuất hiện cả ở hai đối tượng là những người đau phátsinh. Vì vậy có sự liên quan giữa đau cơ và với collagen. Ngược lại người tacòn thấy nồng độ acid lactic trong máu đo được từ huyết thanh không liênquan đến đau cơ xảy ra chậm do huyết tập (Amstrong 1984). Bài tập làm tăng rõ enzym cơ bắp và myoglobin trong huyết thanh,nhưng những giá trị này thường tồn tại trong giới hạn bình thường khôn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tổn thương cơ chế độ dinh dưỡng dinh dưỡng phòng bệnh tập luyện cho sức khỏe kiến thức y họcTài liệu liên quan:
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 168 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
4 trang 111 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 110 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 77 0 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 53 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 48 0 0 -
Kiến thức y học - Sức khỏe quý hơn vàng: Phần 1
177 trang 47 0 0 -
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL
22 trang 46 0 0 -
Giáo trình Dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm: Phần 1
49 trang 43 0 0