Danh mục

Những vấn đề đặt ra đối với quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay

Số trang: 9      Loại file: docx      Dung lượng: 93.47 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước ở Việt Nam những năm vừa qua đã góp phần quan trọng trong phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực hiện đầu tư công thời gian qua cũng đang có những tồn tại và hạn chế. Qua nghiên cứu phân tích, đánh giá tình hình thực tế hiện nay, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những vấn đề đặt ra đối với quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN HIỆN NAY Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước ở Việt Nam những năm vừa qua   đã góp phần quan trọng trong phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế­ xã   hội, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh   tế. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực hiện đầu tư công thời gian qua   cũng đang có những tồn tại và hạn chế. Qua nghiên cứu phân tích, đánh giá tình   hình thực tế hiện nay, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tình   trạng này. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản và những kết quả đạt được Những kết quả tích cực trong đầu tư công thời gian qua thể hiện ở các mặt chủ yếu như  sau: Thứ nhất, hoàn thiện thể chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB), siết chặt kỷ  luật đầu tư công nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Chủ  trương tái cơ  cấu đầu tư  công được đề  cập tại Hội nghị  Trung  ương 3 khóa XI và  được thể  chế  hóa bằng một số  Luật, Nghị định hướng dẫn trong thời gian từ năm 2014  đến nay (Luật Đầu tư công và 07 Nghị định hướng dẫn; Luật Xây dựng và 04 Nghị định  hướng dẫn; Luật Đấu thầu và 02 Nghị định hướng dẫn…). Đặc biệt là Luật Đầu tư công có hiệu lực từ 01/01/2015, với nhiều đổi mới, như: Thể chế  hóa quy trình quyết định chủ  trương đầu tư  nhằm ngăn chặn tình trạng phê duyệt quyết   định đầu tư  công dàn trải, gây thất thoát và lãng phí nguồn lực đầu tư; Chuyển từ  kế  hoạch đầu tư công ngắn hạn hàng năm sang kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm; Phân   bổ vốn đầu tư công được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ  vốn đầu tư công trong từng giai đoạn, bảo đảm phân bổ vốn đầu tư công khai, minh bạch   và công bằng, góp phần tích cực vào việc phòng, chống tham nhũng; Việc phân cấp thẩm   quyền quản lý đầu tư  công mạnh mẽ  và rõ ràng hơn, gắn với trách nhiệm cụ  thể  của   từng đối tượng... Bên cạnh đó, các nghị quyết của Quốc hội, các nghị quyết, quyết định của Chính phủ  và  Thủ tướng Chính phủ đã được ban hành nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của đầu  tư công như: Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 09/11/2016 về kế hoạch tài chính quốc gia  5 năm; Nghị quyết số 26/2016/QH14 ngày 10/11/2016 về kế hoạch đầu tư  công trung hạn  giai đoạn 2016­2020; Nghị quyết số 60/NQ­CP ngày 08/7/2016 về  những nhiệm vụ, giải  pháp chủ  yếu đẩy nhanh tiến độ  thực hiện và giải ngân kế  hoạch vốn đầu tư  công năm  2016; Nghị quyết số 70/NQ­CP ngày 3/8/2017 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy   nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công… đã góp phần thực hiện  cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công. Thứ  hai, việc bố  trí vốn đầu tư  được bố  trí tập trung, hiệu quả  hơn trước, góp phần   khẳng định vai trò chủ đạo của vốn NSNN như nguồn vốn mồi thu hút các nguồn lực từ  các thành phần kinh tế  khác. Nợ  đọng XDCB đã được khống chế  và có biện pháp giải   quyết kịp thời. Việc lập kế hoạch vốn đầu tư  đã bám sát kế  hoạch tài chính ­ ngân sách   3­5 năm, tính đến tổng thể các nguồn lực đảm bảo an toàn tài chính và kiểm soát bội chi,  nợ công. Vốn ODA, vay ưu đãi chỉ để đầu tư phát triển không thực hiện các nhiệm vụ chi  thường xuyên. Kế  hoạch phân bổ  vốn đầu tư  công được lập theo giai đoạn 5 năm, đồng thời chi tiết  từng năm góp phần quản lý chặt chẽ, công khai, minh bạch, theo đúng các tiêu chí, định  mức của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ. Theo số liệu của Bộ Kế  hoạch và Đầu tư (Báo cáo số 470,472 /BC­CP ngày 19/10/2016 của Chính phủ), tổng số dự  án mới năm 2016 giảm 15,6% so với năm 2015, trong khi đó, quy mô vốn của dự  án năm  2012   là   9,54   tỷ   đồng/dự   án,   năm   2013   là   10,68   tỷ   đồng/dự   án,   năm   2014   là   11,04   tỷ  đồng/dự án, năm 2015 tăng 86% so với năm 2012. Thứ  ba, tỷ  trọng đầu tư  của khu vực nhà nước đang giảm dần phù hợp với chủ  trương,  định hướng của Đảng và Nhà nước về khuyến khích sự tham gia của khu vực ngoài nhà  nước cho đầu tư phát triển. Đầu tư  của khu vực nhà nước so với GDP giai đoạn 2011 ­ 2017  ở  mức khoảng 12%  nhưng tỷ trọng trong cơ cấu nguồn vốn có sự  thay đổi. Tỷ  trọng đầu tư  từ  NSNN giảm   dần, từ  mức 54,1% năm 2006 xuống còn 48,2% năm 2016, vốn của các DNNN và các   nguồn vốn khác cũng có xu hướng giảm từ  mức 31,4% vào năm 2006 xuống mức 16,3%   năm 2016. Bên cạnh đó, hiệu quả  đầu tư  công cũng đang từng bước được cải thiện, chỉ  số  ICOR khu vực nhà nước giảm dần từ  mức bình quân 9,2 giai đoạn 2006­2010 xuống  8,94 giai đoạn 2011­2014.  Nguồn vốn đầu tư từ trái phiếu chính phủ (TPCP), vốn ODA đã được tập trung cho việc   phát triển hệ thống các cơ sở  hạ tầng thiết yếu, các công trình lớn, quan trọng, có trọng  tâm trọng điểm, có tính kết nối, lan tỏa, tạo động lực cho phát triển như các chương trình   mục tiêu quốc gia, các chương trình mục tiêu quan trọng thuộc các lĩnh vực giao thông,   thủy lợi, y tế, giáo dục… Những vấn đề đặt ra Bên cạnh những kết quả  đạt được, thực hiện đầu tư  công thời gian qua cũng đang có  những tồn tại và hạn chế, như sau: Một là, về thể chế đầu tư công. Theo quy định tại Luật Đầu tư công, để được bố trí vốn   trong kế hoạch đầu tư công trung hạn các dự án phải được phê duyệt chủ trương đầu tư. Điều kiện để  trình phê duyệt chủ  trương bao gồm nhiều thủ tục như thẩm định nguồn  vốn, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường… Song thực tế, các yêu cầu này không  phát huy hiệu quả  mà còn làm kéo dài thời gian phê duyệt do chưa xác định được tổng  kinh phí cho cả giai đoạn tại thời điểm lập chủ  trương đầu tư, các nội dung nêu tại đề  xuất chủ trương đầu tư mới chỉ mang tính chất khái quát, nên việc đánh giá tác động môi  trường gặp rất nhiều khó khăn, không sát với thực tiễn bởi phạm vi rộng, phức tạp. Một số dự án có quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản nhưng thuộc phạm vi quy hoạch của d ...

Tài liệu được xem nhiều: