Danh mục

NỘI CHIẾN MỸ (1861 - 1865)

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 143.76 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Năm 1783, khi chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NỘI CHIẾN MỸ (1861 - 1865) NỘI CHIẾN MỸ (1861 - 1865)Năm 1783, khi chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở BắcMỹ kết thúc thắng lợi, nước Mỹ ra đời với 13 tiểu bang. Tuy nhiên, nướcCộng hòa non trẻ này còn nhiều vấn đề tồn tại. Nhân dân lao động Mỹđã liên tục đấu tranh để bảo vệ và mở rộng những quyền dân chủ màcách mạng đã đem lại. Cuộc đấu tranh đó đã dẫn đến cuộc nội chiến1862-1865, mà lịch sử thường gọi là chiến tranh li khai.I. NƯỚC MỸ NỬA ÐẦU THẾ KỶ XIX1. Công cuộc di thực và bành trướng của Mỹ:Khi chiến tranh giành độc lập kết thúc, nước Mỹ có 13 bang nằm ở phíaÐông bắc, ven bờ Ðại Tây Dương. Sau đó, Mỹ đã bành trướng mạnh vềphía Tây bằng cách mua lại đất đai của Pháp, tước đọat của Tây BanNha, đồn đuổi thổ dân Indians. Cho đến giữa thể kỷ XIX, Mỹ đã có 30bang với diện tích 3 triệu dặm vuông, dân số 23 triệu người.Giai cấp thống trị Mỹ không những mở rộng đất đai trong nước mà cònmưu toan thôn tính đất đai bên ngòai, trước hết là vùng châu Mỹ La tinh.Năm 1823, Tổng thống Monroe đưa ra học thuyết: Châu Mỹ của ngườiMỹ với dã tâm xâm lược vùng Châu Mỹ La tinh, biến Châu Mỹ La tinhthành sân sau của Mỹ. Mỹ còn gây chiến tranh với Mê-hi-cô năm 1846-1848, mở đầu cho việc thôn tính Trung và Nam Mỹ. Ðồng thời, Mỹcũng dòm ngó sang Châu Aï: can thiệp vào chiến tranh thuốc phiện ởTrung Quốc, đàn áp phong trào Thái bình Thiên quốc, uy hiếp NhậtBản....Ðến giữa thế kỷ XIX, Mỹ đã trở thành một nước đế quốc vớinhững tham vọng đất đai rộng lớn.2. Tình hình phát triển kinh tế:Cùng với việc mở rộng đất đai, nền kinh tế Mỹ phát triển nhanh chóngnhờ nhiều yếu tố thuận lợi: tài nguyên thiên nhiên phong phú, sức laođộng dồi dào, đất đai rộng lớn.2.1. Công nghiêp:Tuy chưa bắt đầu cách mạng công nghiệp, Mỹ cũng đã thừa hưởngnhững thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật Châu Âu, đặc biệt là cáchmạng công nghiệp Anh, do đó công nghiệp Mỹ có những thành tựu đángkể.Giữa thế kỷ X1X, công nghiệp nhẹ phát triển nhanh, nhất là công nghiệpdệt, đứng hàng thứ hai trên thế giới. Công nghiệp nặng phát triển với cácngành: khai mỏ, luyện kim, chế tạo máy móc, nhất là máy nông nghiệp.Trong giao thông vận tải: đường sắt phát triển đáng kể, giữ vị trí hàngđầu thế giới với 49.287 km. Ngòai ra, công nghiệp đóng tàu cũng kháphát triển do nhu cầu vận chuyển đường sông, biển và khả năng lớn vềgỗ. Việc đào các con kênh cũng có một ý nghĩa lớn lao, làm cho việcgiao thông thuận lợi hơn.Việc tìm ra mỏ vàng ở California đã kích thích mạnh mẽ sự phát triểncủa chủ nghĩa tư bản. Với sự phát triển đó, Mỹ xếp hàng thứ tư trong cácnước công nghiệp trên thế giới.2.2 Nông nghiệp:Nông nghiệp Mỹ phát triển với hai miền khác nhau:- Miền Bắc và Tây Bắc: kinh tế trại chủ chiếm ưu thê. Trại chủ khaikhẩn đất đai dựa vào sức lao động của mình là chính, không chịu ảnhhưởng của chế độ phong kiến. Ðây là con đường phát triển nông nghiệpkiểu Mỹ mà Lê-nin đã gọi.- Miền Nam: Nông nghiệp nằm trong tay các chủ đồn điền dựa vào sựbóc lột lao động nô lệ da đen. Các đồn điền miền Nam chủ yếu trồngbông vải, mía, thuốc lá... phục vụ cho công nghiệp ở phía Bắc. Về thựcchất, kinh tế đồn điền là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nhưng chủ nô đãsử dụng nhân công là nô lệ trong việc cung cấp hàng hóa cho thị trườngmiền Bắc.3. Mâu thuẫn giữa hai miền Nam - Bắc:Ðến giữa thế kỷ X1X, nền kinh tế công nghiệp ngày càng phát triểnmạnh. Sự thắng thế của giai cấp tư sản công nghiệp miền Bắc dần dầnmâu thuẫn với chế độ nô lệ đồn điền ở miền Nam.Vào những năm 50 của thế kỷ X1X, kinh tê đồn điền miền Nam lâm vàotình trạng khủng hoảng. Trong các đồn điền, kỹ thuật canh tác thô sơ vìngười ta chỉ bóc lột lao động của nô lệ, đất đai không được chăm bónnên bị bạc màu nhanh chóng. Chủ nô tìm đất mới bằng cách sang miềnTây là vùng rộng mênh mông để phát triển nền kinh tế của mình. Trạichủ miền Bắc cũng muốn biến miền Tây là những vùng hậu cần chocông nghiệp ở phía Bắc. Cả hai đều coi miền Tây như vùng dự trữ củamình, nhưng họ muốn phát triển vùng này theo hai hướng khác nhau: tưbản chủ nghĩa và chế độ nô lệ đồn điền.Sự tồn tại của chế độ nô lệ miền Nam gây cản trở cho sự phát triển tưbản chủ nghĩa cho nên khi vấn đề khai thác miền Tây được đẩy mạnh,Bắc Mỹ càng thấy cần phải giải phóng nô lệ càng nhanh càng tốt. Vì thế,vấn đề khai thác đất ở miền Tây có một ý nghĩa chính trị rất quan trọng.Khi mâu thuẫn giữa hai bên còn chưa gay gắt, thì hai miền còn thỏa hiệpvới nhau qua thỏa ước Misouri và thỏa ước 1850 (cho miền Bắc một sốbang có nô lệ, miền Nam không có nô lệ) nhưng kéo dài không lâu.Trong những năm 50 của thế kỉ XIX, một phong trào đòi giải phóng nôlệ nổ ra sôi nổi, lôi kéo mọi tầng lớp nhân dân ở Bắc Mỹ tham gia nhưnô lệ, công nhân, trại chủ, tư sản.II. DIỄN BIẾN CỦA NỘI CHIẾNTừ những tiền đề kinh tế - chính trị của nước Mỹ giữa thế kỷ X1X, cóthể nói nguyên nhân sâu xa dẫn đến nội chiến là việc thủ tiêu nền kinh tếđồn điền miề ...

Tài liệu được xem nhiều: