Danh mục

Nói thêm về nguyên nhân nợ xấu

Số trang: 2      Loại file: doc      Dung lượng: 35.00 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (2 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại, nhưng có một số nguyên nhân chưa được đề cập đến trong loạt bài phân tích gần đây…
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nói thêm về nguyên nhân nợ xấuNói thêm về nguyên nhân nợ xấu Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại, nhưng có một số nguyên nhân chưa được đề cập đến trong loạt bài phân tích gần đây… Chính phủ vừa đưa ra chủ trương cổ phần hóa tất cả các ngân hàng thương mại quốc doanh. Ngay lập tức vấn đề nợ xấu được đề cập, một bài toán khócần giải quyết trước khi tiến hành cổ phần hóa. Nhưng, nợ xấu của các ngân hàng thương mạiViệt Nam đang ở đâu?Hiện có những câu trả lời khác nhau và những con số không thống nhất.Trên thế giới và trong lịch sử, nợ xấu của các ngân hàng thương mại từng được xem là thuộcdanh mục bí mật của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, thông tin về những con số nhạy cảm nàyđang ngày một cởi mở hơn.Theo số liệu mà Ngân hàng Nhà nước công bố gần đây, tính đến thời điểm 31/12/2005, tìnhhình nợ xấu của hầu hết ngân hàng thương mại Việt Nam đều ở mức rất thấp: chủ yếu dưới 2%ở khối cổ phần và bình quân 5,4% ở khối quốc doanh.Đó là những con số đẹp, quá lý tưởng khi mà nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam đã từng bịđội lên tới 15% tổng dự nợ (trên 23.000 tỷ đồng). Đó là vào thời điểm tháng 12/2000. Con số đókhủng khiếp hơn khi được so sánh tương đương với 4 lần vốn tự có của toàn hệ thống ngânhàng thương mại khi đó.Trở lại với con số bình quân 5,4% nợ xấu của khối ngân hàng thương mại quốc doanh hiện nay,cao nhất thuộc về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) với khoảng 9%; kế đến là Ngân hàngCông thương (Incombank); khả quan nhất là Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank) khi con sốtrong bản cáo bạch gần đây đưa ra là 2,8%.Những con số trên là kết quả của việc phân loại nợ theo Quyết định 493 của Ngân hàng Nhànước. Quyết định này được đánh giá là đã tiến gần hơn tới các chuẩn mực phân loại nợ tiên tiếntrên thế giới. Tuy nhiên, một số tổ chức nước ngoài tại Việt Nam cho rằng con số đó trên thực tếcao hơn nhiều; thậm chí nợ xấu của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn đang ở mức haicon số!Về nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, trong thời gian gần đây VnEconomy đã trích đăng một số bàiviết phân tích khá chi tiết. Có nhiều nguyên nhân. Có nhiều quan điểm. Và có cả những dẫnchứng rất đơn giản mà sâu sắc, như trong bài viết có đề cập đến chủ trương cho vay đối với dựán thủy điện Sơn La: Công văn chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước ghi rằng “Căn cứ quyết địnhđầu tư dự án thủy điện Sơn La đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các ngân hàng thươngmại xét duyệt cho vay, không phải thẩm định phương án vay, trả nợ”.Tuy nhiên, do giới hạn của dung lượng và ý đồ của tác giả, một số nguyên nhân, nguy cơ giatăng nợ xấu của các ngân hàng thương mại chưa được đề cập đến, như nguyên nhân đua lãisuất và ảnh hưởng “bong bóng” của những tài sản thế chấp…Kể từ sau năm 2003, thị trường ngân hàng liên tục chứng kiến các cuộc đua lãi suất nóng sốtgiữa các ngân hàng thương mại. Lãi suất liên tục tăng và luôn trong xu hướng tăng. Thậm chí cólãnh đạo ngân hàng còn thẳng thừng tuyên bố rằng: “Đố ai kìm được lãi suất tiết kiệm!”.Trong lịch sử, hậu quả của lãi suất tăng không có điểm dừng đã được chứng minh khá nhiều.Gần nhất và quen thuộc nhất là trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cách đây khoảng chụcnăm. Ở thời điểm đó, lãi suất ở Indonesia tăng mạnh, và khi vượt trên 30% thì các ngân hàngbắt đầu phá sản.Lãi suất tăng, nợ xấu tăng. Đó là vòng luẩn quẩn mà các ngân hàng đang tránh đề cập. Đó là lýthuyết kinh tế nhưng cũng là thực tế ở Việt Nam, tất nhiên là không đến mức của Indonesiatrong quá khứ.Lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại, cả USD và VND, đã và đang tăng. Lãi suấtcho vay đầu ra buộc phải tăng theo để cân đối. Theo đó, chi phí vốn của doanh nghiệp đội lên,khả năng trả nợ bị ảnh hưởng. Khi lãi suất cho vay ở mức 10 – 12%/năm thì chi phí vay vốn cóthể coi là bình thường, dễ chịu. Nhưng khi lên đến 15%, thậm chí cao hơn, thì lại nảy sinh vấnđề lớn.Những doanh nghiệp mạnh sẽ không chấp nhận mức lãi suất quá cao, họ có khả năng tìm đếnnhững nguồn vốn khác. Nghi vấn đặt ra đối với những doanh nghiệp dám chấp thuận mức lãisuất cao. Phần lớn sự chấp thuận đó xuất phát từ sự thiếu vốn trầm trọng, năng lực tài chínhhạn chế, độ tín nhiệm thấp nên không tiếp cận được những nguồn vốn khác. Và tất nhiên, nguycơ nợ xấu ngân hàng tăng lên từ nhóm đối tượng này.Về ảnh hưởng “bong bóng” của những tài sản thế chấp, nguyên này thể hiện rõ ràng hơn tronghoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua. Cụ thể nhất làhoạt động cho vay đầu tư bất động sản.Chiếm phần lớn trong danh mục tài sản thế chấp vay vốn hiện nay là bất động sản. Giá nhà đấttăng cao, vượt cả giá trị hợp lý của nó và thị trường đóng băng, khả năng trả nợ của nhiều chủđầu tư rơi vào khủng hoảng. Biện pháp thường thấy của các ngân hàng là gia hạn nợ, nhưng đólà cách để tiến gần hơn tới ranh giới nợ xấu. Mặt khác, khi giá nhà đất ...

Tài liệu được xem nhiều: