Danh mục

Nước Văn Lang - Họ Hồng Bàng (2879 - 258 tr.CN) 4

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 121.27 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nước Văn Lang - Họ Hồng Bàng (2879 - 258 tr.CN) 4(Lạc) Long Quân liền về , gặp Âu Cơ ở Tương Dã. Âu Cơ vừa khóc vừa nói rằng: - Thiếp vốn người phương Bắc, cùng chàng ăn ở với nhau mà sinh hạ được trăm đứa con trai, giờ chẳng biết nương tựa vào đâu mà nuôi nấng chúng được, vậy, thiếp xin theo chàng, xin chàng đừng ruồng bỏ, cho thiếp thành kẻ không chồng, các con thành kẻ không cha, thực là đau khổ lắm. (Lạc) Long Quân nói: - Ta là giống Rồng, đứng đầu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nước Văn Lang - Họ Hồng Bàng (2879 - 258 tr.CN) 4 Nước Văn Lang - Họ Hồng Bàng (2879 - 258 tr.CN) 4 (Lạc) Long Quân liền về , gặp Âu Cơ ở Tương Dã. Âu Cơ vừa khóc vừa nóirằng: - Thiếp vốn người phương Bắc, cùng chàng ăn ở với nhau mà sinh hạ được trămđứa con trai, giờ chẳng biết nương tựa vào đâu mà nuôi nấng chúng được, vậy,thiếp xin theo chàng, xin chàng đừng ruồng bỏ, cho thiếp th ành kẻ không chồng,các con thành kẻ không cha, thực là đau khổ lắm. (Lạc) Long Quân nói: - Ta là giống Rồng, đứng đầu các loài dưới nước, còn nàng là giống Tiên, làmngười trên đất. Tuy âm dương khí tụ mà sinh con nhưng không sao đoàn tụ đượcvì hai giống tương khắc như nước với lửa, thật khó bề bền lâu. Nay, đành phảichia li ta mang năm mươi con trai về thủy phủ và chia cho chúng đi cai trị các nơi,còn năm mươi đứa sẽ theo nàng ở lại trên đất, chia nước mà cai trị. Khi lên ngànhay khi xuống nước, có việc thì phải gắn bó nhau mà làm, chớ rời bỏ nhau. Cả trăm người con trai cùng nghe theo rồi cùng nhau tạm biệt. Âu Cơ và nămmươi người con trai đến ở đất Phong Châu, tức là vùng huyện Bạch Hạc, cùngnhau tôn người con trai trưởng lên làm vua, xưng hiệu là Hùng Vương và đặt tênnước là Văn Lang. Nước ấy, về phía Đông thì giáp Nam Hải, về phía Nam thì giápnước Hồ Tôn (nay là nước Chiêm Thành), về phía Tây thì giáp nước Ba Thục, cònphía Bắc thì giáp Động Đình. Nước chia làm mười lăm bộ, gồm: Giao Chỉ, ChuDiên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải( nay là Nam Ninh), DươngTuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Y Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, QuếChân và Tượng Quận. Vua sai các em chia nhau cai trị. Dưới vua có các chức vănvõ. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, Tướng võ gọi là Lạc Tướng, Con trai của vua thìgọi là Quan Lang, con gái của vua thì gọi là Mỵ Nương, chức Tư Mã thì gọi là BồChính, kẻ nô bộc thì gọi là Trâu, nô tì gọi là Tinh và các quan khác thì gọi là Khối.Các chức đời đời cha truyền con nối, gọi là Phụ Đạo. Vua truyền ngôi cho nhauđều lấy hiệu là Hùng Vương chứ không thay đổi.Hồng Bàng là giai đoạn lịch sử thời đại thượng cổ của lịch sử Việt Nam. Nó dựanhiều trên các truyền thuyết chuyện kể, và một số ít bằng chứng khảo cổ học vàghi chép lịch sửNiên đạiThời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Địa bàn củaquốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cảvùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông làĐông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên,Trung Quốc ngày nay). Về sau người Việt chỉ thấy có ở miền Bắc Việt Nam ngàynay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc người Hoa từ phương Bắc. Đoạntrích sau đây cho thấy tác giả có ý rằng người Việt có dòng dõi từ phương Bắc chứkhông phải người bản xứ bị người Hoa khinh rẻ là người man di. Hoặc để ủng hộgiả thuyết cho rằng 2 tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông của Trung Quốc xưa kia làlãnh thổ Bách Việt mà người Việt đã là một phần trong đó[1].Tục truyền: Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phươngNam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), gặp một n àng tiên,lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho contrưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong choLộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là KinhDương Vương, quốc hiệu là Xích Quỉ.Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỉ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy congái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm,nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, đẻ mộtlần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: Ta là giốngrồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó. Bèn từ biệtnhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép làvề Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.Theo thuyết này, người ta cho rằng từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỉ đượcchia ra thành những nước nhỏ, gọi là Bách Việt, dù điều này không có ghi chéplịch sử xác nhận.Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sốngtrên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việtsống ở vùng Đông Bắc. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chốnglại kẻ thù... những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên VănLang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương.Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết, tuy vậychúng ta có thể tạm chấp nhận để giải thích về nguồn gốc dân tộc Việt. Cũng cónhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miềnbắc Việt Na ...

Tài liệu được xem nhiều: