Danh mục

Nuôi Ngao, Nghêu

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 126.30 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Những năm gần đây Ngao, Nghêu trở thành một sản phẩm quan trọng của ngành Thủy sản và trở thành một nghề mới mang lại hiệu quả kinh tế cao cho ngư dân ven biển từ Bắc đến Nam. Nghề nuôi Ngao, Nghêu đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ đặc biệt khu vực phía Bắc từ quảng Ninh đến Thanh Hoá, trong đó Thái Bình và Nam Định là hai tỉnh có diện tích và sản lượng hàng năm cao nhất, sản lượng ước tính trung bình đạt 60.000-70.000 tấn/năm....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nuôi Ngao, Nghêu Nuôi Ngao, NghêuNhững năm gần đây Ngao, Nghêu trở thành một sản phẩmquan trọng của ngành Thủy sản và trở thành một nghề mớimang lại hiệu quả kinh tế cao cho ngư dân ven biển từ Bắcđến Nam. Nghề nuôi Ngao, Nghêu đang có xu hướng pháttriển mạnh mẽ đặc biệt khu vực phía Bắc từ quảng Ninhđến Thanh Hoá, trong đó Thái Bình và Nam Định là haitỉnh có diện tích và sản lượng hàng năm cao nhất, sảnlượng ước tính trung bình đạt 60.000-70.000 tấn/năm. Khucực phía Nam đối tượng nuôi chính là Nghêu (Meretrixlyrata) và được nuôi phổ biến ở Bến Tre, Kiêng Giang, TP.Hồ chí Minh, riêng huyện Cần Giờ TP. Hồ Chí Minh hàngnăm sản xuất được 20.000 tấn Nghêu phục vụ cho nhu cầuxuất khẩu và nội địa.4.4.1. Lấy giống tự nhiên a) Chọn bãi lấy giống: Chọn vùng bãi triều, eo vịnh cósóng gió nhỏ, nước triều lên xuống êm, thông thường đáy làcát bùn (cát 70-80%, bùn 20-30%). Độ mặn thích hợp 19-26ppt, có lượng nước ngọt nhất định chảy vào làm bãi lấygiống. Trường hợp có bị ảnh hưởng của lũ thì phải làm bờchắn lũ. Bờ phải vững chắc, đáy rộng 1- 1,5m độ cao tuỳtheo mực nước tràn vào. Phía trong bờ chắn lũ là các bờngăn vuông góc với bờ chắn lũ, mặt bờ rộng khoảng 30-40cm. Trên mặt vùng bãi ngăn thành nhiều ô lấy giống. b) Dọn bãi, chỉnh bãi: Dọn bãi, chỉnh bãi vào trướcmùa sinh sản của Ngao. Dọn bỏ các vỏ ĐVTM lớn, gạch đỏvà lấp các chỗ trũng, sau đó bừa cho xốp đáy và san lại chobằng phẳng để giống bám nhiều.Vùng có nước triều chảymạnh có thể cải tạo bằng cách đóng cọc để giảm lưu tốcnước, nâng cao lượng giống bám. c) Quản lý bãi: Nội dung quản lý chủ yếu bao gồmchống nước lũ tràn vào, chống nóng, không cho người đivào bãi, chống địch hại. Thường xuyên kiểm tra giống bám,tu chỉnh bờ, dọn mương, diệt trừ địch hại. d) Lấy giống: Sau khi giống bám được 5-6 tháng, cơthể ngao đạt 5 mm thì có thể thu giống. * Phương pháp lấy giống khô: Chia bãi giống thànhtừng ô ruộng nhỏ, rộng khoảng 4-5m chiều dài tuỳ theo địahình. Khi triều rút, dùng cào (bừa) ngao cào cả giống và cáttừ hai bên ruộng vào giữa. Nếu ngao giống vùi sâu thì dùngcào tay làm như vậy liên tiếp trong 2 lượt triều, tập trungngao giữa ruộng với bề rộng khoảng 1,5m. Khi triều dângngao kiếm mồi ăn sẽ bò hết lên trên, tập trung thành đốngtrên mặt bãi. Sau khi hoàn thành việc dồn ngao giống và cátvào giữa ruộng thì đào một hố dài. Nếu dùng phương phápcào bằng cào ngao có 4 răng, lật cả cát và ngao giống lênthì sau đó ngoáy cho tan thành nước bùn, đợi cho ngao bòlên mặt bùn rồi thu giống. * Phương pháp lấy giống nước nông: Khi triều cạnchia bãi thành các mảnh dài, rộng khoảng 8m, sau đó dựngcào ngao, cào xung quanh cả cát và ngao thành một đốnghình tròn có đường kính 6m. Lần triều sau dùng cào phần ởchính giữa bãi giống thành một ô trống có đường kính 3m,sâu 3cm. Lần triều sau nữa khi triều rút, dồn ngao giống ởxung quanh đống vào chính giữa đất trống, sau đó là rửagiống. Khi triều rút xuống cỡ khoảng hơn 1m nước sâu thìđi thuyền xuống bãi rửa giống. Khi nước sâu thì người lấygiống dùng chân đạp nước xung quanh bãi giống, ngaogiống kiếm ăn ở ngoài mặt quanh đống giống do bị dòngnước kích thích sẽ tập trung thành đống ở chính giữa. Sauđó dùng sọt tre hớt giống vào trong thuyền. Khi triều rúttương đối cạn thì dùng bàn tay vỗ nước ở xung quanh đốnggiống từ xung quanh vào giữa, nước chảy làm cho ngaodồn vào chính giữa, dùng sọt tre lấy giống đổ lên thuyền. * Phương pháp lấy giống nước sâu: Ngao sống ởvùng hạ triều, khi thu giống phải dùng lưới kéo. Khi thugiống chèo thuyền tới bãi giống, xác định vị trí thả neo sauđó thả dài dây neo, thuyền theo nước lùi về sau khi cáchneo được 50m thì dừng lại thả lưới giống, kéo dây neo đểthuyền tiến về phía trước kéo theo lưới giống, cách khoảng10m thì thu lưới. Tiếp đó lại thả dây neo, thuyền lùi lại thulần thứ hai nhưng phải giữ hướng lái tốt để giữ cho thuyềnvà hướng nước chảy theo một góc độ nhất định, tránh việckéo giống ở trên điểm cũ.4.4.2. Nuôi Ngao, Nghêu thương phẩm a) Bãi nuôi: Bãi nuôi nên chọn nơi có ngao sinhtrưởng tự nhiên hoặc chọn ở những bãi cát pha bùn, gần nơicó nước ngọt chảy vào với một lượng thích hợp. Bãi nuôibằng phẳng, tỷ lệ cát chiếm 60 – 80%, mặt bãi có màu vàngnhạt. Bãi ở trung, hạ triều là thích hợp; Độ mặn từ 19-26ppt. Chỉnh bãi: trước khi thả giống phải chỉnh bãi như đốivới bói ngao giống. Chỗ bãi có đáy rắn phải làm cho xốplên rồi san bằng; để giữ cho mặt bãi không tích nước phảikhai mương nhỏ. Trước khi thả giống ở phía cuối bãi dùngđăng tre hoặc lưới chắn xung quanh với độ cao 0,6-0,7m,chân đăng (lưới) vùi sâu xuống bùn cátt từ 0,2-0,3m. Cắmcọc, cách đều nhau 1,2-1,5m để dựng lưới và ngả lưới vàophía trong bãi. Trường hợp không dựng đăng lưới thì đắpbờ.Trên mặt bãi căng nhiều giây ngang để giữ không cho ngaođi. b) Thả giống: Mật độ thả 100 kg/ha với ngao giốngcở 5 vạn con/kg; 110 kg/ha với cỡ giống 4 vạn ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: