Danh mục

Nuôi vẹm vỏ xanh góp phần giảm ô nhiễm do tảo

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 124.69 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vẹm vỏ xanh có đặc tính ăn lọc, chúng ăn thực vật phù du, nên nuôi vẹm vỏ xanh không phải đầu tư thức ăn nhiều lại làm sạch môi trường, giảm được nguy cơ ô nhiễm do tảo sinh ra, nhất là ở các ao đầm nuôi tôm. Vẹm vỏ xanh là động vật biển thân mềm, thịt thơm ngon, có hàm lượng dinh dưỡng cao, vỏ có tầng ngọc dày dùng để chế biến một số hàng thủ công mỹ nghệ. Hiện nay có hai hình thức nuôi vẹm vỏ xanh: Nuôi dây treo và nuôi dây quấn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nuôi vẹm vỏ xanh góp phần giảm ô nhiễm do tảo Nuôi vẹm vỏ xanh góp phần giảm ô nhiễm do tảoVẹm vỏ xanh có đặc tính ăn lọc, chúng ăn thực vật phù du, nên nuôivẹm vỏ xanh không phải đầu tư thức ăn nhiều lại làm sạch môitrường, giảm được nguy cơ ô nhiễm do tảo sinh ra, nhất là ở các aođầm nuôi tôm.Vẹm vỏ xanh là động vật biển thân mềm, thịt thơm ngon, có hàm lượngdinh dưỡng cao, vỏ có tầng ngọc dày dùng để chế biến một số hàng thủcông mỹ nghệ.Hiện nay có hai hình thức nuôi vẹm vỏ xanh: Nuôi dây treo và nuôi dâyquấn trên cọc.Nuôi dây treo là hình thức treo các dây có vẹm bám vào bè hoặc giàn ởngoài biển. Nuôi quấn cọc là dùng dây có vẹm bám quấn xung quanhcọc đóng cố định ở bãi triều. Hai hình thức nuôi có những công đoạnchính sau đây.Chọn điểm nuôi Dù nuôi dây treo hay quấn dây trên cọc, địa điểm nuôi đều phải cócác điều kiện như sau: - Nơi có độ sâu thích hợp từ -0,5m xuống -1m so với mặt 0 hải đồ(mặt nước ở mức thủy triều ròng nhất có thể xảy ra) hoặc từ tuyến hạtriều đến sâu trên 10m nước. - Nước biển có độ mặn từ 18‰ - 32‰, thích hợp nhất là 20‰ -30‰ và độ trong của nước biển từ 2m trở lên. - Dòng chảy của nước từ 0,2m/s - 0,5m/s.Vật liệu và cấu tạo các bộ phận nuôi vẹm Nuôi dây treo, gồm các bộ phận: - Túi chứa giống làm bằng vải màn hoặc lưới cước sợi mịn có mặtlưới mau hay bằng ni-lông. Theo kinh nghiệm, dùng túi bằng ni-lôngtrơn bóng dễ quan sát, song phải đục các lỗ quanh túi có đường kính 2 -3mm để nước biển có thể vào túi. Túi dài 30 - 40cm, đường kính túi là 4- 5cm. - Dây cho vẹm bám làm bằng sợi ni-lông đường kính 2 - 3cm dài50cm, một đầu buộc thành khuyết để luôn dây treo. - Dây treo bằng ni-lông đường kính nhỏ hơn dây vẹm bám, dài 1 -1,5m, một đầu luồn qua khuyết buộc chặt, đầu kia để buộc vào giàn treohoặc bè (Hình 1: Túi chưa có giống). - Giàn treo gồm 4 hoặc 6, 8 cọc tùy theo diện tích giàn nuôi. Các cọclàm bằng gỗ tốt, chịu được nước mặn, mỗi cọc dài từ 2 - 2,5m đườngkính 10 - 15cm đóng thẳng đứng theo chiều vuông góc với dòng chảycủa nước. Mỗi cọc đóng cách đều nhau 1,5 - 2m. Xà làm bằng gỗ trònđường kính 10cm, xà dọc dài 1,6 - 2m, xà ngang dài tùy theo chiều dàicủa giàn nuôi. Các xà liên kết với đầu cọc bằng mối buộc dây thépđường kính 2 - 2,5mm, mỗi xà cách đều nhau 0,8m. - Nuôi dây quấn cọc, gồm các bộ phận: - Màng chứa vẹm giống làm bằng xi măng láng nhẵn hoặc bằngnhựa hay ghép bằng gỗ lót ni-lông để giữ được nước. Máng hình thangđáy dưới rộng 0,5m, thành máng cao 0,5m. - Dây cho vẹm bám làm bằng bẹ dừa hoặc sợi cói (bện như thừng,chão) đường kính của dây 1,5 - 2cm, dài 2 - 3m. Theo kinh nghiệm dùngdây bằng bẹ dừa hoặc cói mềm dễ quấn vào cọc. - Cọc để quấn dây nuôi vẹm làm bằng gỗ khô, chịu được nước mặn(không dùng gỗ có nhựa đắng, độc và có nhựa tươi). Cọc dài 2 - 2,5m,đường kính 10 - 15cm, đóng sâu xuống nước từ 0,5m trở lên để sóng vỗkhông đổ cọc.Kỹ thuật nuôi - Tạo giống bám vào dây: + Đối với dây treo tiến hành như sau: Luồn dây qua túi, buộc chặtmột đầu dây vào một đầu túi thả vẹm vào túi. Mỗi túi có thể thả từ 1.000- 1.500 con vẹm cỡ 0,5 - 1cm sau đó buộc chặt đầu túi thứ hai, đem túitreo vào giàn nuôi, đặt ngập nước. Sau 5 - 10 ngày quan sát thấy hầu hết vẹm đã bám vào dây thì cắt bỏtúi. Dùng kéo cắt tỉa bớt những con vẹm bám ở chỗ này. Tơ chân củavẹm bám rất chắc và dài như cao su, theo kinh nghiệm không thể dùngtay dứt vẹm ra khỏi dây, nếu làm mạnh ruột vẹm sẽ tuột khỏi vỏ. Nhữngcon vẹm được cắt tơ chân được dùng cho vào túi bám ở dây sau. Đemdây có vẹm bám treo vào giàn nuôi. + Đối với dây quấn cọc, tiến hành như sau: Đưa nước biển vào máng(nước biển có độ mặn tương đương với độ mặn ở nơi nuôi vẹm), cho sụckhí và rải vẹm vào máng, tùy theo chiều dài của dây mà quyết định sốlượng vẹm giống. Đặt dây vào máng theo chiều dọc của máng, dây nằmgiữa lớp vẹm giống. Sau 3 đến 5 ngày quan sát thấy hầu hết vẹm trongmáng đã bám vào dây. Đem dây ra khỏi máng tỉa bớt những chỗ vẹmbám dày, đem dây quấn vào cọc để nuôi. Mỗi cọc có thể quấn từ 1 - 2dây (Hình 5: Cọc có quấn dây vẹm bám). - Chăm sóc + Thường xuyên kiểm tra giàn treo, cọc và dây để kịp thời tu sửa khicó sự cố. + Luôn luôn làm vệ sinh dây treo, cột và dây để hạn chế con hà, consun bám làm đứt dây hoặc kiểm tra cá, ghẹ vào ăn thịt vẹm. Tốt nhấtxung quanh giàn nuôi hoặc cọc nuôi căng thêm lưới để chống cá, cua,ghẹ vào ăn thịt vẹm. Nuôi vẹm ở ao, đầm nuôi tôm cần chú ý: Chu kỳ nuôi tôm ngắn(khoảng 4 - 5 tháng/vụ), trong khi chu kỳ nuôi vẹm dài hơn. Do đó trướckhi thu hoạch tôm phải bố trí một ao đầm có đủ điều kiện để di dời vẹmsang nuôi tạm, cho đến khi nuôi tôm vụ 2, đem vẹm trở lại nuôi.Thu hoạch vẹm Vẹm là loài sinh trưởng chậm, sau 1,5 - 2 năm vẹm mới đạt cỡ 80 -100mm chiều dài. Nuôi vẹm đạt đến cỡ thương phẩm cũng phải sau 1 -1,5 năm mới thu hoạch. Cách tiến hành như sau: Dùng dao hoặc kéo cắttơ chân của từng cá ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: