Nuôi Vẹm xanh (Perna viridis)
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 163.14 KB
Lượt xem: 23
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Năm 1997, vẹm xanh (Perma viridis) được thử nghiệm nuôi đầu tiên tại vùng cửa sông thuộc địa bàn thôn Hải Vân - Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, sau đó được mở rộng ra nuôi tại nhiều vùng như Khánh Hoà, Bình Định, Quảng Ninh, Hải Phòng và Nghệ An. Từ năm 1997 tổng số hộ nuôi vẹm xanh là 5 hộ, đến năm 1999 tổng số hộ nuôi là 9 hộ, đến năm 2001 tổng số hộ nuôi là 75 hộ diện tích nuôi khoảng 7 ha....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nuôi Vẹm xanh (Perna viridis) Nuôi Vẹm xanh (Perna viridis)Năm 1997, vẹm xanh (Perma viridis) được thử nghiệmnuôi đầu tiên tại vùng cửa sông thuộc địa bàn thôn Hải Vân- Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, sau đó được mở rộng ranuôi tại nhiều vùng như Khánh Hoà, Bình Định, QuảngNinh, Hải Phòng và Nghệ An. Từ năm 1997 tổng số hộnuôi vẹm xanh là 5 hộ, đến năm 1999 tổng số hộ nuôi là 9hộ, đến năm 2001 tổng số hộ nuôi là 75 hộ diện tích nuôikhoảng 7 ha. Riêng vùng Thừa Thiên Huế năm 2001 chỉ cókhoảng 0,5 ha nhưng đã thu được 65,32 tấn. Phương phápnuôi Vẹm rất đa dạng. a) Bãi nuôi: Vẹm là loài sống bám, ưa độ muối cao,thích sống dưới sâu nên bãi nuôi cần chọn nơi có nhiều rạnđá (để giảm chi phí về vật bám), xa cửa sông (tránh ảnhhưởng của nước lũ) và ở dưới tuyến triều thấp (thuận lợicho sinh trưởng của Vẹm). Độ sâu nuôi Vẹm thường khôngquá 3 - 5 m để tiện quản lý chăm nom, sâu hơn nữa sinhtrưởng của vẹm tốt nhưng khó quản lý. Vị trí bãi nuôi tuỳtheo cách nuôi quyết định. Nuôi bằng dây phao treo trên bèphao thì không phải chú trọng đến chất đáy và độ sâu màchỉ cần chọn nơi có sóng yên gió lặng. Nuôi bằng cách thảđá thì cần chọn chất đáy sỏi cát cứng, ở độ sâu 1 m dướituyến triều thấp. Nuôi bằng cách cắm cọc thì cần chọn chấtđáy cát mềm ở độ sâu 1 m dưới tuyến triều thấp. Ngoài racần chú ý đến điều kiện thức ăn, điều kiện môi trường nhưđộ mặn 15 - 30‰; pH 7,5 – 8,5,…nước lưu thông và khôngcó nước thải công nghiệp đổ vào. b) Các hình thức nuôi:- Nuôi trong các túi treo thành giàn: Ở những vùng nướcsâu (độ sâu > 3 m) dùng các cọc gỗ đường kính 10 – 12 cm,dài 3 – 4 m đóng thành ô vuông hoặc ô chữ nhật. Cứ 3 – 4m đóng thành một hàng cột, ở giữa có cột đỡ, sau đó dùngdây có đường kính 4 – 6 cm buộc các cọc thành hàng songsong. Vẹm giống được thả trong những bao lưới cũ khâuthành hình ống, dài từ 0,7 – 1 m. Rải đều giống trên xơ dừatrong túi. Sau đó treo túi vẹm vào các dây đã căng sẵn,khoảng cách giữa các túi từ 1,5 – 2 m. Khoảng cách giữacác hàng 3 – 4 m. Các túi treo so le, cách mặt đất 0,4 – 0,5m và cách mặt nước 1,5 – 2 m.- Nuôi bằng trụ xi măng: Các trụ xi măng hình vuông,chiều dài tùy thuộc vào giá đỡ, chiều rộng 10 cm, giữa trụcó thanh sắt để tăng độ bền. Trụ được đặt nằm ngang trêndàn gỗ cách nền đáy 0,4 – 0,5 m.- Nuôi bằng tấm xi măng: Tấm xi măng hình chữ nhậtchiều dài 0,5 m; chiều rộng 0,4 m; chiều dày 3 – 5 cm. Bốngóc có 4 lổ để luồn dây treo dựng đứng. Giàn gỗ tương tựnhư trên, giàn luôn luôn chìm dưới nước, cách mặt nước từ2 – 3 m. Các vật liệu này có thể sử dụng 3 – 5 năm. Mỗicọc ngang có thể treo từ 3 – 4 tấm, do đó mỗi giàn treođược 20 – 50 tấm.- Nuôi bằng cọc gỗ: Cọc gỗ đặt nằm ngang song song vớiđáy biển trên giá gỗ như trụ xi măng hoặc cắm dựng đứng.Cọc có đường kính 10 – 15 cm, chiều cao 3 – 4 m tùy độsâu của mặt nước. Cọc có thể sử dụng trong 2 năm. Để tăngđộ bền cho cọc, nhân dân thường dùng bao tải ni lông bọcbên ngoài các cọc nhằm hạn chế sự phá hoại của Hầu, Hà,Sun. Bằng phương pháp này có thể kéo dài thời gian sửdụng lên 4 – 5 năm/cọc.Kỹ thuật cho giống bám vào dây:* Đưa nước biển sạch có độ mặn tương đương độ mặn nơinuôi vào máng.* Sục khí* Thả giống vào máng* Đưa dây bám giống vào máng theo chiều dài của máng vàsợi dây nằm giữa các lớp Vẹm giống ở dưới đáy.* Chờ từ 3 – 5 ngày cho Vẹm mọc tơ chân bám vào dây thìlấy dây chuyển ra bãi nuôi.Quấn dây vào cọc nuôi: Cọc được đóng vững chắc xuốngbãi. Mỗi cọc sẽ được quấn từ 1 – 2 dây đã có giống bám.Quá trình phát triển không những tơ chân của vẹm chỉ bámvào dây mà còn bám cả vào thân cọc.- Nuôi thả bằng các sọt rổ thưa: ở những vùng nước nông(độ sâu từ 1 – 1,5 m), dùng các rổ, sọt tre rải vẹm giốngtrong sọt và được đặt trên giá gỗ cách mặt đất 0,2 – 0,4 m,đảm bảo sọt không bị dao động khi nước chảy. c) Mật độ giống thả: Mật độ giống thả tùy thuộc kíchthước con giống và các hình thức nuôi khác nhau.Bảng 16. Mật độ giống thả Vẹm xanh ở các hình thức nuôiở đầm Lăng Cô Các hình thức nuôi Kích cỡ Mật độ giống T th ả T (con/kg) Nuôi tấm xi măng 250 - 300 1-2 kg/tấm 1 treo giàn 1-2 kg/tấm 80 - 120 Nuôi túi lưới treo 80 2 2-3 kg/túi giàn Nuôi bao bố trên 80 - 120 3 2-3 kg/bao các cọc gỗ đứng Nuôi cọc gỗ cắm 80 - 120 4 –5 kg/cọc 4 đứng 2 kg/cọc 250 - 300 Nuôi cọc xi măng 80 - 120 4 – 5 kg/cọc 5 xếp song song với đáy Nuôi rổ tre 2 kg/rổ 6 80 - 120 7 Nuôi dây treo giàn 80 1 kg/dâyd) Thời vụ nuôi:Vụ nuôi dài hay ngắn tùy thuộc vào nhiềuyếu tố trong đó có cả yếu tố kích thước giống thả nuôiBảng 17. Kích cỡ giống vẹm ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nuôi Vẹm xanh (Perna viridis) Nuôi Vẹm xanh (Perna viridis)Năm 1997, vẹm xanh (Perma viridis) được thử nghiệmnuôi đầu tiên tại vùng cửa sông thuộc địa bàn thôn Hải Vân- Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, sau đó được mở rộng ranuôi tại nhiều vùng như Khánh Hoà, Bình Định, QuảngNinh, Hải Phòng và Nghệ An. Từ năm 1997 tổng số hộnuôi vẹm xanh là 5 hộ, đến năm 1999 tổng số hộ nuôi là 9hộ, đến năm 2001 tổng số hộ nuôi là 75 hộ diện tích nuôikhoảng 7 ha. Riêng vùng Thừa Thiên Huế năm 2001 chỉ cókhoảng 0,5 ha nhưng đã thu được 65,32 tấn. Phương phápnuôi Vẹm rất đa dạng. a) Bãi nuôi: Vẹm là loài sống bám, ưa độ muối cao,thích sống dưới sâu nên bãi nuôi cần chọn nơi có nhiều rạnđá (để giảm chi phí về vật bám), xa cửa sông (tránh ảnhhưởng của nước lũ) và ở dưới tuyến triều thấp (thuận lợicho sinh trưởng của Vẹm). Độ sâu nuôi Vẹm thường khôngquá 3 - 5 m để tiện quản lý chăm nom, sâu hơn nữa sinhtrưởng của vẹm tốt nhưng khó quản lý. Vị trí bãi nuôi tuỳtheo cách nuôi quyết định. Nuôi bằng dây phao treo trên bèphao thì không phải chú trọng đến chất đáy và độ sâu màchỉ cần chọn nơi có sóng yên gió lặng. Nuôi bằng cách thảđá thì cần chọn chất đáy sỏi cát cứng, ở độ sâu 1 m dướituyến triều thấp. Nuôi bằng cách cắm cọc thì cần chọn chấtđáy cát mềm ở độ sâu 1 m dưới tuyến triều thấp. Ngoài racần chú ý đến điều kiện thức ăn, điều kiện môi trường nhưđộ mặn 15 - 30‰; pH 7,5 – 8,5,…nước lưu thông và khôngcó nước thải công nghiệp đổ vào. b) Các hình thức nuôi:- Nuôi trong các túi treo thành giàn: Ở những vùng nướcsâu (độ sâu > 3 m) dùng các cọc gỗ đường kính 10 – 12 cm,dài 3 – 4 m đóng thành ô vuông hoặc ô chữ nhật. Cứ 3 – 4m đóng thành một hàng cột, ở giữa có cột đỡ, sau đó dùngdây có đường kính 4 – 6 cm buộc các cọc thành hàng songsong. Vẹm giống được thả trong những bao lưới cũ khâuthành hình ống, dài từ 0,7 – 1 m. Rải đều giống trên xơ dừatrong túi. Sau đó treo túi vẹm vào các dây đã căng sẵn,khoảng cách giữa các túi từ 1,5 – 2 m. Khoảng cách giữacác hàng 3 – 4 m. Các túi treo so le, cách mặt đất 0,4 – 0,5m và cách mặt nước 1,5 – 2 m.- Nuôi bằng trụ xi măng: Các trụ xi măng hình vuông,chiều dài tùy thuộc vào giá đỡ, chiều rộng 10 cm, giữa trụcó thanh sắt để tăng độ bền. Trụ được đặt nằm ngang trêndàn gỗ cách nền đáy 0,4 – 0,5 m.- Nuôi bằng tấm xi măng: Tấm xi măng hình chữ nhậtchiều dài 0,5 m; chiều rộng 0,4 m; chiều dày 3 – 5 cm. Bốngóc có 4 lổ để luồn dây treo dựng đứng. Giàn gỗ tương tựnhư trên, giàn luôn luôn chìm dưới nước, cách mặt nước từ2 – 3 m. Các vật liệu này có thể sử dụng 3 – 5 năm. Mỗicọc ngang có thể treo từ 3 – 4 tấm, do đó mỗi giàn treođược 20 – 50 tấm.- Nuôi bằng cọc gỗ: Cọc gỗ đặt nằm ngang song song vớiđáy biển trên giá gỗ như trụ xi măng hoặc cắm dựng đứng.Cọc có đường kính 10 – 15 cm, chiều cao 3 – 4 m tùy độsâu của mặt nước. Cọc có thể sử dụng trong 2 năm. Để tăngđộ bền cho cọc, nhân dân thường dùng bao tải ni lông bọcbên ngoài các cọc nhằm hạn chế sự phá hoại của Hầu, Hà,Sun. Bằng phương pháp này có thể kéo dài thời gian sửdụng lên 4 – 5 năm/cọc.Kỹ thuật cho giống bám vào dây:* Đưa nước biển sạch có độ mặn tương đương độ mặn nơinuôi vào máng.* Sục khí* Thả giống vào máng* Đưa dây bám giống vào máng theo chiều dài của máng vàsợi dây nằm giữa các lớp Vẹm giống ở dưới đáy.* Chờ từ 3 – 5 ngày cho Vẹm mọc tơ chân bám vào dây thìlấy dây chuyển ra bãi nuôi.Quấn dây vào cọc nuôi: Cọc được đóng vững chắc xuốngbãi. Mỗi cọc sẽ được quấn từ 1 – 2 dây đã có giống bám.Quá trình phát triển không những tơ chân của vẹm chỉ bámvào dây mà còn bám cả vào thân cọc.- Nuôi thả bằng các sọt rổ thưa: ở những vùng nước nông(độ sâu từ 1 – 1,5 m), dùng các rổ, sọt tre rải vẹm giốngtrong sọt và được đặt trên giá gỗ cách mặt đất 0,2 – 0,4 m,đảm bảo sọt không bị dao động khi nước chảy. c) Mật độ giống thả: Mật độ giống thả tùy thuộc kíchthước con giống và các hình thức nuôi khác nhau.Bảng 16. Mật độ giống thả Vẹm xanh ở các hình thức nuôiở đầm Lăng Cô Các hình thức nuôi Kích cỡ Mật độ giống T th ả T (con/kg) Nuôi tấm xi măng 250 - 300 1-2 kg/tấm 1 treo giàn 1-2 kg/tấm 80 - 120 Nuôi túi lưới treo 80 2 2-3 kg/túi giàn Nuôi bao bố trên 80 - 120 3 2-3 kg/bao các cọc gỗ đứng Nuôi cọc gỗ cắm 80 - 120 4 –5 kg/cọc 4 đứng 2 kg/cọc 250 - 300 Nuôi cọc xi măng 80 - 120 4 – 5 kg/cọc 5 xếp song song với đáy Nuôi rổ tre 2 kg/rổ 6 80 - 120 7 Nuôi dây treo giàn 80 1 kg/dâyd) Thời vụ nuôi:Vụ nuôi dài hay ngắn tùy thuộc vào nhiềuyếu tố trong đó có cả yếu tố kích thước giống thả nuôiBảng 17. Kích cỡ giống vẹm ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
bảo quản và chế biến thủy sản kỹ thuật nuôi tôm nuôi trồng thủy sản đặc điểm của vẹm xanh sinh sản của vẹm xanhGợi ý tài liệu liên quan:
-
78 trang 344 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 243 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 237 0 0 -
13 trang 226 0 0
-
225 trang 221 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 197 0 0 -
2 trang 195 0 0
-
13 trang 181 0 0
-
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 180 0 0 -
91 trang 175 0 0