Ô nhiễm môi trường nước và biển trước tác động phát triển
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 98.50 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nhờ thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tăng trưởng mạnh, tỉ lệ nghèo đói giảm rõ rệt. Tuy nhiên, thúc đẩy tự do thương mại đi cùng với sự phát triển kinh tế cũng mang lại những tác động ngoài mong muốn, đặc biệt với môi trường nước và môi trường biển nước ta. Môi trường nước, biển bị đe dọa nghiêm trọngMôi trường nước, biển của Việt Nam là một trong những đối tượng chịu tác động và đe dọa nghiêm trọng khi ngày càng nhiều các...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ô nhiễm môi trường nước và biển trước tác động phát triển Ô nhiễm môi trường nước và biển trước tác động phát triểnNhờ thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, nền kinh tế Việt Nam đã cónhững bước tăng trưởng mạnh, tỉ lệ nghèo đói giảm rõ rệt. Tuy nhiên, thúc đẩy tựdo thương mại đi cùng với sự phát triển kinh tế cũng mang lại những tác độngngoài mong muốn, đặc biệt với môi trường nước và môi trường biển nước ta. trường nước, biển bị đe dọa trọngMôi nghiêmMôi trường nước, biển của Việt Nam là một trong những đối tượng chịu tác độngvà đe dọa nghiêm trọng khi ngày càng nhiều các khu công nghiệp, khu đô thị vàdu lịch được xây dựng dọc các con sông và ven biển, khiến lượng chất thải giatăng nhanh chóng.Trong khi đó, trước lợi nhuận và áp lực cạnh tranh của thị trường, các doanhnghiệp lại chỉ chú tâm vào đẩy mạnh phát triển kinh tế, mà xem nhẹ yếu tố môitrường. Nhiều doanh nghiệp sử dụng các quy trình công nghệ thiếu thân thiện vớimôi trường nhằm giảm đến mức tối đa chi phí cho sản xuất. Theo thống k ê, đếntháng 6/2006, Việt Nam có 47% dự án FDI thì chỉ có 20% dự án sử dụng côngnghệ cao. Vì vậy mà mỗi năm, các con sông và biển của Việt Nam vẫn liên tụctiếp nhận hàng triệu m3 nước thải không qua xử lý.Hầu hết những sông lớn của Việt Nam đều chảy qua các khu dân cư tập trung, cáckhu công nghiệp và những vùng nông nghiệp phát triển trước khi đổ ra biển, mangtheo toàn bộ chất ô nhiễm nó nhận được trong đất liền, gây ô nhiễm môi trườngbiển. Báo cáo năm 2004 của Bộ T ài nguyên Môi trường đã thống kê, vùng kinh tếtrọng điểm phía Nam thải ra biển hơn 315.000m3 nước thải công nghiệp mỗingày. Sông Sài Gòn, sông Thị Nghè, sông Vàm Cỏ đã bị nhiễm axít nặng với độPH là 4,5 đến 5,0 - trong khi tiêu chuẩn an toàn cho phép đối với độ PH là từ 6,5 -8,5.Cùng với đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủysản, hoạt động khai thác khoáng sản, phát triển du lịch, giao thông tr ên biển... đềulàm gia tăng lượng chất thải nguy hại trong môi tr ường nước biển, như BOD,COD, chất rắn lơ lửng... Nhiều nơi hàm lượng các chất thải đo được vượt quá tiêuchuẩn cho phép nhiều lần. Năm 2003, chất thải COD mà vùng Quảng Ninh – HảiPhòng thải ra biển là 141.000 tấn; Quảng Nam – Đà Nẵng là 130.000 tấn, và riêngthành phố Hồ Chí Minh là 6.000 tấn. Còn lượng chất thải BOD tương ứng là25.200 tấn; 34.200 tấn và 4.000 tấn. Mỗi năm, ngành chế biến thủy sản thải ra môitrường 160.000 – 180.000 tấn chất thải rắn và từ 8 – 12 triệu m3 nước thải. Và đasố các cơ sở chế biến thủy sản đều được xây dựng bên bờ biển hay cửa sông.Thêm vào đó, mặc dù tài nguyên nước mặt và nước ngầm của Việt Nam kháphong phú, dồi dào nhưng 2/3 tổng lượng nước mặt lại phụ thuộc từ các nướcngoài như Trung Quốc, Thái Lan, Miama, Lào và Campuchia. Các nước này cũngđang trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế toàn cầu. Do vậy, họ đềutận dụng, khai thác tài nguyên nước khiến cho thượng nguồn các con sông chảyvào Việt Nam bị ô nhiễm.Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và dân số tăng nhanh khiến lượng thải đổ rasông ngày càng nhiều. Lưu vực của nhiều con sông như sông Nhuệ, sông Đáy,sông Cầu và sông Sài Gòn đang trong tình trạng báo động vì ô nhiễm nghiêmtrọng, hàm lượng nhiều loại chất thải đo được từ các con sông này đều vượt tiêuchuẩn cho phép nhiều lần. Nguyên nhân chủ yếu là do nước thải chưa qua xử lý từcác hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản, các khu công nghiệp, làng nghề,nước thải sinh hoạt...được thải thẳng ra sông.Ảnh hưởng tới hệ sinh thái và sức khỏe con ngườiÔ nhiễm nước mặt trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với các hệ sinh thái thủysinh và những khu vực có hệ thống sông bị ô nhiễm chảy qua. Điển hình là một sốcác vườn quốc gia, các khu bảo tồn có giá trị đa dạng sinh học cao nằm trong l ưuvực của sông Sài Gòn - Đồng Nai đang chịu ảnh hưởng bởi tình trạng ô nhiễmnước sông.Ô nhiễm nước sông Nhuệ - sông Đáy cũng làm cho các loại thủy cầm chết hàngloạt vào năm 2004 - 2005, gây thiệt hại lớn cho nông dân các tỉnh Hà Nam vàNam Định.Dưới sức ép của các hoạt động phát trển kinh tế, ô nhiễm môi trường và thiên tai,các hệ sinh thái, nơi cư trú của các loài sinh vật biển bị phá hủy, đặc biệt là đối cáchệ sinh thái nhạy cảm như rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và san hô... Theo đánh giácủa Bộ Thủy sản, hoạt động sản xuất trong thời kỳ 1985 – 2000 đã chặt phá đi15.000ha rừng ngập mặn mỗi năm. Năm 2002, Viện Tài nguyên thế giới đưa racảnh báo cho rằng 80% rạn san hô biển của Việt Nam nằm trong t ình trạng rủi rocao.Đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy hải sản giảm rõ rệt do đánh bắt tận diệt và suygiảm môi trường sống. Theo đánh giá của Viện Hải dương học Bộ Thủy sản,khoảng 85 loài hải sản đã được xếp vào các mức độ nguy cấp khác nhau. Trongđó, 70 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam nhưng vẫn là đối tượng ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ô nhiễm môi trường nước và biển trước tác động phát triển Ô nhiễm môi trường nước và biển trước tác động phát triểnNhờ thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, nền kinh tế Việt Nam đã cónhững bước tăng trưởng mạnh, tỉ lệ nghèo đói giảm rõ rệt. Tuy nhiên, thúc đẩy tựdo thương mại đi cùng với sự phát triển kinh tế cũng mang lại những tác độngngoài mong muốn, đặc biệt với môi trường nước và môi trường biển nước ta. trường nước, biển bị đe dọa trọngMôi nghiêmMôi trường nước, biển của Việt Nam là một trong những đối tượng chịu tác độngvà đe dọa nghiêm trọng khi ngày càng nhiều các khu công nghiệp, khu đô thị vàdu lịch được xây dựng dọc các con sông và ven biển, khiến lượng chất thải giatăng nhanh chóng.Trong khi đó, trước lợi nhuận và áp lực cạnh tranh của thị trường, các doanhnghiệp lại chỉ chú tâm vào đẩy mạnh phát triển kinh tế, mà xem nhẹ yếu tố môitrường. Nhiều doanh nghiệp sử dụng các quy trình công nghệ thiếu thân thiện vớimôi trường nhằm giảm đến mức tối đa chi phí cho sản xuất. Theo thống k ê, đếntháng 6/2006, Việt Nam có 47% dự án FDI thì chỉ có 20% dự án sử dụng côngnghệ cao. Vì vậy mà mỗi năm, các con sông và biển của Việt Nam vẫn liên tụctiếp nhận hàng triệu m3 nước thải không qua xử lý.Hầu hết những sông lớn của Việt Nam đều chảy qua các khu dân cư tập trung, cáckhu công nghiệp và những vùng nông nghiệp phát triển trước khi đổ ra biển, mangtheo toàn bộ chất ô nhiễm nó nhận được trong đất liền, gây ô nhiễm môi trườngbiển. Báo cáo năm 2004 của Bộ T ài nguyên Môi trường đã thống kê, vùng kinh tếtrọng điểm phía Nam thải ra biển hơn 315.000m3 nước thải công nghiệp mỗingày. Sông Sài Gòn, sông Thị Nghè, sông Vàm Cỏ đã bị nhiễm axít nặng với độPH là 4,5 đến 5,0 - trong khi tiêu chuẩn an toàn cho phép đối với độ PH là từ 6,5 -8,5.Cùng với đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủysản, hoạt động khai thác khoáng sản, phát triển du lịch, giao thông tr ên biển... đềulàm gia tăng lượng chất thải nguy hại trong môi tr ường nước biển, như BOD,COD, chất rắn lơ lửng... Nhiều nơi hàm lượng các chất thải đo được vượt quá tiêuchuẩn cho phép nhiều lần. Năm 2003, chất thải COD mà vùng Quảng Ninh – HảiPhòng thải ra biển là 141.000 tấn; Quảng Nam – Đà Nẵng là 130.000 tấn, và riêngthành phố Hồ Chí Minh là 6.000 tấn. Còn lượng chất thải BOD tương ứng là25.200 tấn; 34.200 tấn và 4.000 tấn. Mỗi năm, ngành chế biến thủy sản thải ra môitrường 160.000 – 180.000 tấn chất thải rắn và từ 8 – 12 triệu m3 nước thải. Và đasố các cơ sở chế biến thủy sản đều được xây dựng bên bờ biển hay cửa sông.Thêm vào đó, mặc dù tài nguyên nước mặt và nước ngầm của Việt Nam kháphong phú, dồi dào nhưng 2/3 tổng lượng nước mặt lại phụ thuộc từ các nướcngoài như Trung Quốc, Thái Lan, Miama, Lào và Campuchia. Các nước này cũngđang trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế toàn cầu. Do vậy, họ đềutận dụng, khai thác tài nguyên nước khiến cho thượng nguồn các con sông chảyvào Việt Nam bị ô nhiễm.Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và dân số tăng nhanh khiến lượng thải đổ rasông ngày càng nhiều. Lưu vực của nhiều con sông như sông Nhuệ, sông Đáy,sông Cầu và sông Sài Gòn đang trong tình trạng báo động vì ô nhiễm nghiêmtrọng, hàm lượng nhiều loại chất thải đo được từ các con sông này đều vượt tiêuchuẩn cho phép nhiều lần. Nguyên nhân chủ yếu là do nước thải chưa qua xử lý từcác hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản, các khu công nghiệp, làng nghề,nước thải sinh hoạt...được thải thẳng ra sông.Ảnh hưởng tới hệ sinh thái và sức khỏe con ngườiÔ nhiễm nước mặt trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với các hệ sinh thái thủysinh và những khu vực có hệ thống sông bị ô nhiễm chảy qua. Điển hình là một sốcác vườn quốc gia, các khu bảo tồn có giá trị đa dạng sinh học cao nằm trong l ưuvực của sông Sài Gòn - Đồng Nai đang chịu ảnh hưởng bởi tình trạng ô nhiễmnước sông.Ô nhiễm nước sông Nhuệ - sông Đáy cũng làm cho các loại thủy cầm chết hàngloạt vào năm 2004 - 2005, gây thiệt hại lớn cho nông dân các tỉnh Hà Nam vàNam Định.Dưới sức ép của các hoạt động phát trển kinh tế, ô nhiễm môi trường và thiên tai,các hệ sinh thái, nơi cư trú của các loài sinh vật biển bị phá hủy, đặc biệt là đối cáchệ sinh thái nhạy cảm như rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và san hô... Theo đánh giácủa Bộ Thủy sản, hoạt động sản xuất trong thời kỳ 1985 – 2000 đã chặt phá đi15.000ha rừng ngập mặn mỗi năm. Năm 2002, Viện Tài nguyên thế giới đưa racảnh báo cho rằng 80% rạn san hô biển của Việt Nam nằm trong t ình trạng rủi rocao.Đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy hải sản giảm rõ rệt do đánh bắt tận diệt và suygiảm môi trường sống. Theo đánh giá của Viện Hải dương học Bộ Thủy sản,khoảng 85 loài hải sản đã được xếp vào các mức độ nguy cấp khác nhau. Trongđó, 70 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam nhưng vẫn là đối tượng ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Ô nhiễm môi trường môi trường nước ô nhiễm nước phân loại ô nhiễm chất thải môi công nghiệp con người và sinh vậtGợi ý tài liệu liên quan:
-
30 trang 231 0 0
-
Môi trường sinh thái và đổi mới quản lý kinh tế: Phần 2
183 trang 211 0 0 -
138 trang 186 0 0
-
Vai trò chỉ thị của đồng vị phóng xạ trong nghiên cứu các quá trình môi trường
7 trang 156 0 0 -
69 trang 117 0 0
-
Môi trường trong địa lý học: Phần 1
175 trang 110 0 0 -
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG MỘT SỐ LOẠI PHÂN BÓN HỮU CƠ.
10 trang 85 0 0 -
7 trang 80 0 0
-
Đề tài: Xử lý nước thải nhà máy giấy
59 trang 74 0 0 -
Đề tài: Đánh giá diễn biến chất lượng nước các hồ Hà Nội giai đoạn 2006-2010
15 trang 72 0 0