Danh mục

Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định mới được rất ít ngân hàng thực hiện

Số trang: 2      Loại file: doc      Dung lượng: 30.50 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (2 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ngày 22/4/2005, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 493//2005/QĐ_NHNN có nội dung: từ tháng 4/2008, các ngân hàng thương mại phải thực hiện phân loại nọ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo điều 7, thay vì theo Điều 6 của quyết định này mà các ngân hàng đang thực hiện.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định mới được rất ít ngân hàng thực hiệnPhân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định mới được rất ít ngânhàng thực hiện, vì sao?Ngày 22/4/2005, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN có nộidung: từ tháng 4/2008, các ngân hàng thương mại phải thực hiện phân loại nợ, trích lậpvà sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo Điều 7, thay vì theo Điều 6 của quyếtđịnh này mà các ngân hàng đang thực hiện.Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước lại chưa riết róng yêu cầu các ngân hàng thương mạiphải thực hiện đúng quy định.Vì sao các ngân hàng né tránh?Có gì khác nhau giữa phân loại nợ xấu theo Điều 6 và Điều 7? Ông Trần Bắc Hà, Chủtịch Hội đồng Quản trị BIDV cho biết: Về cơ bản, việc phân loại nợ theo Điều 7 là đánhgiá toàn diện năng lực tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng. Còn việc phân loạinợ theo Điều 6 chỉ dựa trên việc đánh giá khả năng trả nợ của từng khoản vay riêng lẻ.Theo đó, thực hiện theo Điều 6 thì ngân hàng chỉ nhìn vào một khoản vay và nếu kháchhàng trả nợ đúng hạn thì khách hàng đó tốt. Thậm chí, trong nhiều trường hợp kháchhàng chưa trả được nợ thì gia hạn nợ hoặc cán bộ tín dụng xoay đủ kiểu để kháchhàng có tiền đáo nợ là xong!Và thế là khách hàng và khoản nợ trên cứ yên vị ở nhóm đẹp; khách hàng thêm mộtthời gian không phải lo ngay ngáy trả nợ còn ngân hàng chỉ trích lập dự phòng rủi ro íthơn, có nhiều vốn để quay vòng hơn...Đương nhiên, nhìn bề ngoài, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng hay tổ chức tín dụng đó rấtthấp và mặc nhiên, họ được bôi lên mình thứ nước hoa thơm phức.Nhờ đó, cơ hội đến với các ngân hàng này nhiều hơn khi muốn xin giấy phép thành lậpcông ty con ra nước ngoài làm ăn, được triển khai dự án một cách dễ dàng bởi trong conmắt các nhà quản lý, muốn nói gì thì nói, nợ xấu thấp là mọi việc cứ ổn!Nhưng nếu thực hiện theo điều 7 thì sao? Ông Võ Tấn Hoàng Văn, Phó tổng giám đốcCông ty Kiểm toán quốc tế Ernst & Young nói: Muốn thực hiện được Điều 7 thì phải xâydựng thành công hệ thống đánh giá, xếp hạng tín nhiệm nội bộ đối với khách hàng. Nókhông chỉ giúp ngân hàng phân loại nợ trung thực hơn mà còn là công cụ tư vấn, giúpban lãnh đạo có định hướng chiến lược kinh doanh rõ ràng, hướng nhiều hơn về kháchhàng.Cũng theo ông Văn, nếu áp dụng Điều 7, sẽ phải thực hiện đủ 54 chỉ tiêu, bao gồm 14chỉ tiêu tài chính và 40 chỉ tiêu phi tài chính. Những chỉ tiêu tài chính giúp cho ngân hàngnhìn được bức ảnh cắt lớp tình hình tài chính trong một kỳ kế toán còn những chỉ tiêuphi tài chính sẽ giúp cán bộ tín dụng soi kỹ hơn vào năng lực thực sự của doanhnghiệp.Đơn cử: một doanh nghiệp trình báo cáo tài chính lãi với ngân hàng để được vay vốnnhưng nếu doanh nghiệp đó trả lương thấp hoặc nợ lương công nhân thì ngân hàng cócơ sở đặt dấu hỏi và kết luận xác đáng về chất lượng của khách hàng này. Trên thực tế,không ít doanh nghiệp vẫn có ba báo cáo tài chính: một báo cáo lỗ để né thuế, một báocáo lãi để được vay vốn và một báo cáo trung thực chỉ có ban lãnh đạo biết.Trở lại với Điều 7 của Quyết định 493, nếu thực hiện theo Điều 7 thì lập tức phân loạikhách hàng và nợ sẽ trung thực và thực tế là tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng thêm 2 - 3 lần, dẫnđến phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn, lợi nhuận giảm và dù là thực tế hiển nhiênnhưng nhiều ngân hàng vẫn muốn... che đi.Sân chơi phải minh bạch và công bằngÔng Hoàng Huy Hà, Phó tổng giám đốc BIDV phân trần: Năm 2005, BIDV bắt đầu thựchiện phân loại nợ theo Điều 7. Tại thời điểm đó, nợ xấu của BIDV lên tới 31% nhưng đến2006, tỷ lệ này giảm xuống 9,6%, năm 2007 là 3,9% và cuối quý 2/2008 chỉ còn 2,77%.Tuy nhiên, trả giá cho hành động tiên phong này, năm ngoái, BIDV phải trích lập dựphòng rủi ro tới 3.550 tỷ đồng. Nếu không trích lập dự phòng với mức đó, lợi nhuận trướcthuế năm 2007 của BIDV sẽ là 5.700 tỷ đồng chứ không phải 2.115 tỷ đồng.Ông Hà cho biết thêm, với mức dự phòng này, BIDV thừa sức đối phó với mọi rủi ro củanăm nay.Mặc dù lợi ích khi thực hiện chuẩn phân loại nợ theo Điều 7 đã rõ, thể hiện ở chỗ: nếuphân loại nợ tốt thì chất lượng tín dụng, khả năng thanh khoản của ngân hàng đượcnâng cao rõ rệt nhưng hiện tại, trong số các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ cóBIDV thực hiện.Còn nhiều ngân hàng thương mại khác vẫn chưa động tĩnh và điều băn khoăn là độngthái chỉ đạo từ phía Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa riết róng.Liên quan đến vấn đề phân loại nợ, gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyếtđịnh số 06/2008/QĐ- NHNN về xếp loại ngân hàng thương mại cổ phần.Ông Trương Ngọc Anh, Phó vụ trưởng Vụ Các ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngânhàng cho biết: Xếp hạng này nhằm đánh giá lại tổng thể hoạt động của một Ngân hàngthương mại qua 5 năm tiêu chí trong một năm, nhằm mục đích cảnh báo và ngăn ngừarủi ro, nâng cao năng lực quản trị điều hành của ngân hàng thương mại.Tuy nhiên, điều này chỉ dừng ở chỗ: các ngân hàng thương mại tự đánh giá và Ngânhàng Nhà nước c ...

Tài liệu được xem nhiều: