Danh mục

PHÂN TÍCH LÒNG YÊU THƯƠNG VÀ QUÝ TRỌNG VỢ CỦA TÚ XƯƠNG BÀI THƠ 'THƯƠNG VỢ'_1

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 113.19 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chúng ta đã từng biết đến một Khuê ai lục của Ngô Thì Sỹ khóc người vợ yêu qua đời giữa lúc đầu xanh tuổi trẻ, một Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn Du thương tiếc người vợ đã khuất
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PHÂN TÍCH LÒNG YÊU THƯƠNG VÀ QUÝ TRỌNG VỢ CỦA TÚ XƯƠNG BÀI THƠ “THƯƠNG VỢ”_1 PHÂN TÍCH LÒNG YÊU THƯƠNG VÀ QUÝ TRỌNG VỢ CỦA TÚ XƯƠNG BÀI THƠ “THƯƠNG VỢ”Chúng ta đã từng biết đến một Khuê ai lục của Ngô Thì Sỹ khóc ngườivợ yêu qua đời giữa lúc đầu xanh tuổi trẻ, một Đoạn trường lục củaPhạm Nguyễn Du thương tiếc người vợ đã khuất, những câu thơ dứtruột của Tự Đức và trước Tú Xương một chút là câu đối khóc vợ chứachan tình người của Nguyễn Khuyến. Các nhà thơ trung đại Việt Namviết về vợ mình không nhiều, mà chủ yếu lại là văn tế và câu đối khócngười đã khuất. Chỉ có một số nhà thơ như Cao Bá Quát, Bùi HữuNghĩa, Phạm Văn Nghị là có viết về vợ mình ngay lúc đang sống. Nhưngviết nhiều nhất và hay nhất, mà lại là về một người vợ đang còn hiệnhữu trên đời thì có lẽ Trần Tế Xương (1870 - 1907) là tác giả tiêu biểuhơn cả. Và nếu có làm văn tế thì cũng là Văn tế sống vợ (!),không phảiđể tiếc thương mà để cười thương ngợi ca người bạn đời của mình.kTú Xương có rất nhiều khác biệt với các tác giả trước ông. Nhà thơ nàycủa làng Vị Xuyên là con người của buổi giao thời, là dấu nối đầy ấntượng giữa nền văn học trung đại ở giai đoạn cuối chiều nhưng lại kếttinh tinh hoa của hàng nghìn năm với nền văn học cận hiện đại đang bắtđầu có dấu hiệu hình thành với bao điều mới mẻ. Trên đầu Tú Xươngkhông còn những áp lực nặng nề của tư tưởng và quan niệm chínhthống khắt khe đã quy định các tác giả trước ông, trong ông nhiều giátrị của quá khứ đang từng bước sụp đổ và cái mới thì chưa kịp tới.Quan niệm của một nhà thơ trào phúng cũng giúp ông tiếp cận cuộc đờitheo một kiểu khác, gần hơn, với một kiểu tư duy nghiêng về phân tích,mổ xẻ đối tượng, đưa vào trong thơ nhiều hình ảnh sống động hơn,quan niệm thẩm mỹ cũng biến đổi hướng về thực tại. Điều đó tạo choông những khoảng không sáng tạo quan trọng, giúp ông khác với truyềnthống.Thơ Nôm Đường luật đến Tú Xương đã trải qua một thời gian phát triểnkhá dài, nó liên tục được cách tân từ thời Nguyễn Trãi, và tác giảThương vợ chính là người đã đem đến cho thể loại văn học đã đượcViệt hóa cao độ này những phá cách mới mẻ giàu giá trị nghệ thuật.Đây là một bài thơ Nôm, viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, cókết cấu theo trình tự đề, thực, luận, kết, ông Tú viết để tặng người vợtảo tần mưa nắng của mình.Trần Tế Xương chủ yếu là một nhà thơ trào phúng, trào phúng chuyênnghiệp. Những bài thơ nghiêng về trữ tình như Sông Lấp, Áo bông chebạn, Thương vợ không nhiều, nhưng bài nào cũng xuất chúng. Thươngvợ lại tiêu biểu cho sự hòa hợp giữa hai phẩm chất nghệ thuật nổi bậttrong sáng tác của ông: trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình làchính, là cơ bản. Bà Tú là một đề tài khá quen thuộc trong thơ TúXương, hình ảnh bà đã đi vào sáng tác của ông trong các bài như: Đaumắt, Văn tế sống vợ, Tự cười mình, Hỏi mình... và Thương vợ. Nhữngbài thơ này cho chúng ta thấy, bên cạnh một Tú Xươn trào phúng sắcsảo, ngang ngạnh, tinh quái, khác đời là một Tú Xương khác rất mựcđằm thắm, biết tự hạ mình để làm đẹp người khác. Không phải lúc nàocon người ấy cũng chế giễu, cười người, cay độc mà nhiều lúc ông vẫnđể cho lòng mình sâu lắng lại và bật ra những bài thơ chứa chan tìnhcảm, giàu sự suy tư, dằn vặt.Thương vợ viết về bà Tú nhưng thực ra lại có sự song hành của cả haihình tượng: hình tượng bà Tú được thể hiện một cách nổi bật trực tiếpvà hình tượng ông Tú được khắc hoạ một cách gián tiếp nấp sau ngườivợ nhưng vẫn khá rõ nét. Thực chất Tú Xương viết thơ để ca ngợi vợ vàmuốn khắc hoạ hình qảnh một ông “chồng thừa” vô trách nhiệm chứkhông hề có ý đề cao mình nhưng vô hình chung vẫn hiển hiện trong bàithơ một nhân cách cao đẹp của người chồng và từ đó là một quan niệmkhác biệt về người vợ so với truyền thống.Tú Xương đã giới thiệu vợ mình một cách thân mật, gần gũi, hóm hỉnhnhưng ẩn chứa trong đó bao tình cảm và nỗi niềm dằn vặt, xót xa:Quanh năm buôn bán ở mom sôngCâu thơ ngắn gọn đã phản ánh một cách cụ thể, chi tiết không gian, địađiểm và công việc làm ăn của bà Tú. Tên thật của bà là Phạm Thị Mẫn,quê ở Lương Đường, Hải Dương, nhưng sinh tại Nam Định. Bà chuyênbuôn bán gạo ở bến sông để nuôi gia đình. Hai từ “quanh năm” nói lênđược nỗi vất vả, tần tảo của bà Tú triền miên hết ngày này đến ngàykhác, tháng này đến tháng khác, năm này đến năm khác... Vòng quaycủa thời gian vô tận đã cuốn bà vào cuộc vật lộn mưu sinh đầy vất vả.Cách tính thời gian như thế vừa nói được nỗi lo toan khó nhọc của bàTú, lại vừa là cách ông Tú tỏ lòng biết ơn công lao tần tảo sớm hôm củavợ mình. Biện pháp tăng cấp ý được sử dụng để diễn tả sự vất vả, từthời gian (quanh năm), nghề nghiệp (buôn thúng bán mẹt), cho đếnkhông gian, địa điểm làm ăn: “mom sông”. Mom sông là một nơi chênhvênh, ba bề là nước, nó gợi lên sự nguy hiểm, bất trắc, vốn không phảilà nơi dành để buôn bán bình thường. Bởi vậy hơn ai hết, Tú Xươnghiểu rõ mục đích của nỗi vất vả đó nơi người vợ:Nuôi đủ năm con với một chồngĐôi quang g ...

Tài liệu được xem nhiều: