Danh mục

Phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu: Quan điểm và hướng đi mới

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 993.45 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ngành nông nghiệp hiện chiếm khoảng 32,3% GDP vùng tạo sinh kế cho 49,3% lao động tại đồng bằng, giúp đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và phục vụ xuất khẩu, đồng thời góp phần lớn trong giảm tỷ lệ nghèo ấn tượng từ khoảng 15% xuống còn dưới 10% trong giai đoạn 2006-2016. Tuy nhiên, hiện nay nông nghiệp ĐBSCL đang phải đồng thời đối mặt với 3 thách thức lớn từ biến đổi khí hậu, các hoạt động phát triển ở thượng nguồn sông Mê Công và các hoạt động phát triển nội tại, khiến ngành nông nghiệp tăng trưởng chậm lại và kém bền vững. Thực trạng này đòi hỏi trong giai đoạn tới phải có hướng đi mới cho nông nghiệp ĐBSCL một cách chiến lược và căn cơ theo tinh thần đổi mới của Nghị quyết 120/NQ-CP ngày của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu: Quan điểm và hướng đi mới PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG KỶ YẾU HỘI THẢO TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: QUAN ĐIỂM VÀ HƯỚNG ĐI MỚI TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn Đặng Kim Khôi  Lê Thị Hà Liên  Phạm Đức Thịnh Đ ồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có tổng diện tích 3,94 triệu ha và dân số 17,5 triệu người, chiếm 12% diện tích tự nhiên và 20% dân số cả nước. ĐBSCL có lợi thế to lớn để phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng đáp ứng được nhu cầu của nhiều thị trường khác nhau trong và ngoài nước. Ngành nông nghiệp hiện chiếm khoảng 32,3% GDP vùng tạo sinh kế cho 49,3% lao động tại đồng bằng, giúp đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và phục vụ xuất khẩu, đồng thời góp phần lớn trong giảm tỷ lệ nghèo ấn tượng từ khoảng 15% xuống còn dưới 10% trong giai đoạn 2006-2016. Tuy nhiên, hiện nay nông nghiệp ĐBSCL đang phải đồng thời đối mặt với 3 thách thức lớn từ biến đổi khí hậu, các hoạt động phát triển ở thượng nguồn sông Mê Công và các hoạt động phát triển nội tại, khiến ngành nông nghiệp tăng trưởng chậm lại và kém bền vững. Thực trạng này đòi hỏi trong giai đoạn tới phải có hướng đi mới cho nông nghiệp ĐBSCL một cách chiến lược và căn cơ theo tinh thần đổi mới của Nghị quyết 120/NQ-CP ngày của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH. 1. Quá trình chuyển đổi nông nghiệp ĐBSCL trong thời gian qua Thành tựu Trong ba thập kỷ qua, hệ thống canh tác ĐBSCL chịu ảnh hưởng tổng hợp của chính sách, thủy lợi, thị trường xuất khẩu, tiến bộ kỹ thuật công nghệ, môi trường, đô thị hóa và công nghiệp hóa 1, trong đó động lực kinh tế đóng vai trò quyết định. Hệ thống nông nghiệp dịch chuyển theo hướng tăng vụ và đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao hơn, đồng thời phát triển theo hướng thâm canh và có xu hướng chuyển sang chất lượng cao, an toàn. Với chính sách an ninh lương thực và hệ thống đê bao phát triển, hệ thống lúa đã chuyển từ lúa mùa 1 vụ sang 2 đến 3 vụ cao sản và dần định hình các vùng chuyên canh lúa 3 vụ. Diện tích lúa 3 vụ hiện chiếm khoảng 45% diện  Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT-IPSARD  Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT-IPSARD  Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT-IPSARD  Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT-IPSARD 1 ICEM 2015 215 tích lúa ĐBSCL 1. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, hệ thống lúa có xu hướng chuyển từ lúa 2/3 vụ sang lúa 1 vụ/2 vụ luân canh màu hoặc chuyên màu, chuyển sang lúa xen canh thủy sản (lúa-tôm càng xanh), luân canh thủy sản (lúa-tôm sú/tôm thẻ) hoặc chuyên canh tôm và chuyển sang cây ăn trái. Trong giai đoạn 2011-2017, đã có 41 bộ giống lúa được lai tạo, xác nhận đưa sản xuất thử, trong đó có nhiều giống ngắn ngày, giúp né mặn, tránh lũ, chịu phèn, chịu mặn tốt hơn. Ở hầu hết các vùng đã chuyển mạnh từ giống lúa chất lượng thấp, trung bình sang giống lúa chất lượng cao, nếp, thơm hiện chiếm đến khoảng 83% 2 diện tích. Quy trình canh tác lúa trong một thời gian dài sử dụng nhiều phân bón và thuốc bảo vệ thực vật để tăng năng suất, tuy nhiên, gần đây đã có hướng phát triển bền vững và thích nghi tốt hơn với BĐKH như ‘Ba giảm, ba tăng’, ‘một phải năm giảm’, ‘một phải sáu giảm’, giảm lượng giống gieo sạ. Các kỹ thuật tưới nước tiết kiệm, tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP cũng ngày càng được áp dụng rộng rãi hơn. Diện tích cây ăn trái phát triển mạnh 2 bên hạ lưu sông Tiền, sông Hậu và bắt đầu lan rộng ra các vùng đê bao triệt để, ít bị ảnh hưởng của lũ. Tổng diện tích trái cây của toàn vùng tăng 53% giai đoạn 2000 - 2016, đạt 323 nghìn ha vào năm 2016 3. Giống trái cây phát triển đa dạng với nhiều loại giống nhập từ nước ngoài cho năng suất cao. Kỹ thuật canh tác cũng có nhiều tiến bộ vượt bậc giúp người nông dân chủ động rải vụ theo ý muốn. Tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP cũng bắt đầu được áp dụng. Diện tích nuôi trồng thủy sản mở rộng nhanh chóng chủ yếu là cá tra ở vùng thượng nguồn và tôm ở vùng ven biển. Trong giai đoạn 2008-2015, diện tích thủy sản tăng khoảng 30%, tuy nhiên diện tích rừng lại giảm 9% 4, phần lớn là chuyển sang phát triển thủy sản. Giống và thức ăn thủy sản được cải tiến dẫn đến sự chuyển dịch hình thức nuôi trồng từ nuôi quảng canh lên nhiều hình thức đa dạng hơn gồm quảng canh cải tiến, bán thâm canh, thâm canh, siêu thâm canh với mật độ thả giống dày hơn, cơ sở hạ tầng và kỹ thuật tốt hơn tạo năng suất cao và giúp phòng tránh dịch bệnh và ô nhiễm. Chăn nuôi có xu hướng gia tăng tại ĐBSCL và trở thành ngành tiềm năng với các sản phẩm gia cầm, lợn, bò thịt, bò sữa, dê, ong... chủ yếu đáp ứng nhu cầu nội vùng Chăn nuôi trang trại bắt đầu phát triển cả về số lượng, chất lượng và công nghệ chăn nuôi. Với quá trình chuyển đổi trên, ĐBSCL đã phát triển thành một vùng kinh tế năng động, có mức tăng trưởng GDP tương đối cao là 8,25%/năm trong giai đoạn 2001-2016, đạt 512 nghìn tỷ đồng vào năm 2016. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của vùng tăng bình quân 7,15%/năm giai đoạn 2001- 2010, cao hơn mức tăng bình quân của cả nước (5,32%/năm) và tăng ở tất cả 3 1 IPSARD tính toán dựa trên Niên giám thống kê 13 tỉnh ĐBSCL 2 Báo cáo của Cục Trồng trọt vụ Đông Xuân 2017/2018 3 IPSARD tính toán dựa theo Niên Giám thông kê 1 ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: