Danh mục

Phụ phẩm giết mổ chế biến trong dinh dưỡng động vật nhai lại

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 266.46 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các phụ phẩm động vật chế biến có lượng mỡ cao bao gồm mỡ động vật nhai lại và mỡ mềm. Với phần lớn chất béo có trong mỡ phụ phẩm chế biến bao gồm các triglyceride với trên ≥ 90% a xít béo, mật độ năng lượng trong mỡ phụ phẩm chế biến bằng hoặc cao hơn năng lượng của hầu hết các chất béo bổ sung thường được sử dụng trong khẩu phần nuôi bò. Mật độ năng lượng cao kết hợp với giá cả hợp lý làm cho mỡ phụ phẩm chế biến có thể cạnh tranh với phần lớn các loại mỡ khác dùng trong thức ăn khi tính trên cơ sở giá thành cho một đơn vị năng lượng. Hạn chế lớn nhất của mỡ chiết xuất từ sản phẩm động vật là chúng cần các dụng cụ phối trộn, vận chuyển chuyên dụng và chúng có thể làm ngừng sự lên men của vi sinh vật dạ cỏ và do đó có thể làm giảm tỷ lệ tiêu hóa thức ăn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phụ phẩm giết mổ chế biến trong dinh dưỡng động vật nhai lại PHỤ PHẨM GIẾT MỔ CHẾ BIẾN TRONG DINH DƯỠNG ĐỘNG VẬT NHAI LẠI Thomas C. Jenkins, Ph.D. Bộ môn Khoa học thú y và động vật Đại học Clemson Tóm tắt Việc sử dụng các phụ phẩm động vật đã chế biến làm thức ăn cho các loài động vật nhai lại có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả chăn nuôi và khả năng cung cấp các sản phẩm thịt, sữa cho người tiêu dùng với giá cả phải chăng. Các sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ có đặc điểm riêng là hàm lượng protein cao, có chứa các a xít amin không bị phân giải ở dạ cỏ, và các loại mỡ động vật cung cấp nguồn thức ăn giàu năng lượng cho sản xuất thịt và sữa. Trong lịch sử, các phụ phẩm động vật chế biến đầu tiên được sử dụng làm nguồn bổ sung protein bao gồm bột thịt xương, bột máu, bột cá và bột lông vũ. Các qui định của FDA nhằm phản ứng với các mối lo ngại về bệnh bò điên (BSE) nêu rõ sẽ vẫn được phép sử dụng một số phụ phẩm động vật chế biến làm nguyên liệu thức ăn trong các khẩu phần của gia súc nhai lại. Các qui định hiện nay cấm sử dụng bột thịt xương từ các loài nhai lại làm thức ăn cho bò và cừu, nhưng bột lông vũ và bột phế phụ phẩm gia cầm vẫn được phép sử dụng. Lo ngại về các thức ăn bổ sung protein chế biến từ bò đã làm tăng sự quan tâm của người chăn nuôi đối với các phụ phẩm chế biến từ gia cầm bao gồm bột lông vũ và bột phế phụ phẩm gia cầm sử dụng trong các khẩu phần cho bò. Các phụ phẩm động vật chế biến có lượng mỡ cao bao gồm mỡ động vật nhai lại và mỡ mềm. Với phần lớn chất béo có trong mỡ phụ phẩm chế biến bao gồm các triglyceride với trên ≥ 90% a xít béo, mật độ năng lượng trong mỡ phụ phẩm chế biến bằng hoặc cao hơn năng lượng của hầu hết các chất béo bổ sung thường được sử dụng trong khẩu phần nuôi bò. Mật độ năng lượng cao kết hợp với giá cả hợp lý làm cho mỡ phụ phẩm chế biến có thể cạnh tranh với phần lớn các loại mỡ khác dùng trong thức ăn khi tính trên cơ sở giá thành cho một đơn vị năng lượng. Hạn chế lớn nhất của mỡ chiết xuất từ sản phẩm động vật là chúng cần các dụng cụ phối trộn, vận chuyển chuyên dụng và chúng có thể làm ngừng sự lên men của vi sinh vật dạ cỏ và do đó có thể làm giảm tỷ lệ tiêu hóa thức ăn. Đóng góp protein của các sản phẩm động vật chế biến Các mối quan tâm về luật lệ Các phụ phẩm động vật chế biến đã đóng góp rất nhiều cho nhu cầu protein của các loài gia súc nhai lại trong rất nhiều thập kỷ mà không có sự lo ngại nào về sức khỏe của gia súc hay người tiêu dùng. Nhiệt độ sử dụng để xử lý các sản phẩm động vật chế biến nhằm loại bỏ nước đủ để tiêu diệt vi khuẩn và các virus gây bệnh. Sự quan tâm đến BSE, thường được gọi là “bệnh bò điên”, xuất hiện đầu tiên ở châu Âu đã dẫn đến lệnh cấm sử dụng bất kỳ loại bột thịt xương từ các loài nhai lại làm thức ăn cho bò và cừu năm 1997 ở Hoa Kỳ. Trường hợp BSE xuất hiện đầu tiên ở Hoa Kỳ là vào năm 2003 (trên bò nhập khẩu từ Canada) và trường hợp thứ ba được báo cáo vào năm 2006. Nguyên nhân và cách phòng bệnh này vẫn đang được quan tâm, tập trung vào prion nhiều hơn là vi khuẩn hoặc virus. Prion là những mảnh protein trong tế bào bình thường 109 nhưng có thể nhân lên và gây thành bệnh và có khả năng kháng lại các phương pháp bất hoạt thông thường như sử dụng pH ở mức cực đoan, phóng xạ hoặc phun formon. Rõ ràng là việc tiếp tục sử dụng các sản phẩm động vật chế biến làm nguồn bổ sung protein trong các khẩu phần cho bò và cừu là điểm mấu chốt trong các qui định của FDA trong hiện tại cũng như trong tương lai. Mặc dù bột thịt xương động vật nhai lại bị ảnh hưởng từ lệnh cấm của FDA nhưng bột máu và bột lông vũ lại không bị ảnh hưởng gì. Hơn nữa, việc sử dụng bột thịt xương có nguồn gốc từ các sản phẩm của lợn và gia cầm trong thức ăn cho bò vẫn được chấp nhận. Chính vì thế việc sử dụng nhiều hơn sản phẩm chế biến từ gia cầm làm thức ăn cho bò ngày càng được quan tâm và điều này sẽ được thảo luận sau. Các qui định bổ sung của FDA về việc cấm sử dụng bột protein sẽ xác định số lượng và chủng loại bột protein động vật chế biến được dùng trong khẩu phần cho bò và cừu. Trang web của Hiệp hội các nhà chế biến phụ phẩm quốc gia (www.renderers.org) sẽ cung cấp thêm nhiều thông tin cho các nhà chế biến phụ phẩm giết mổ về tác động của các qui định đối với việc sử dụng các sản phẩm của ngành chế biến này làm thức ăn chăn nuôi. Protein và thành phần a xít amin Các phụ phẩm động vật chế biến có điểm đặc trưng là hàm lượng protein cao trong đó có chứa các a xít amin không bị phân giải bởi hệ vi sinh vật dạ cỏ (Hình 1). Phần protein trong thức ăn không bị phân giải bởi hệ vi sinh vật dạ cỏ được gọi là protein không phân giải dạ cỏ hay protein thoát qua (Rumen Undegradable protein - RUP). Phần RUP đem theo toàn bộ các a xít amin nguyên dạng trong thức ăn xuống thẳng ruột non của gia súc nhai lại, ở đó các a xít amin được tiêu hóa và hấp thu. Phần RUP có thể giúp làm tăng sản lượng thịt và sữa nếu có chứa tỷ lệ thích hợp các a xít amin thiết yếu cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp protein ở các mô cơ thể. Hàm lượng RUP cao có thể gây ảnh hưởng xấu nếu bao gồm các a xít amin không cần thiết cho các mô cơ thể hoặc các a xít amin thành phần khó tiêu hóa ở ruột non. Phần protein có thể phân giải ở dạ cỏ (Rumen Degradable Protein - RDP) trong thức ăn bị phân giải bởi các vi sinh vật dạ cỏ tạo thành các a xít amin và peptide. A xít amin sau đó được phân giải thành amoniac và các a xít hữu cơ. Amoniac có thể được: (1) hấp thụ qua các tế bào biểu mô dạ cỏ vào máu. (2) chuyển xuống ruột non và (3) vi sinh vật dạ cỏ sử dụng để tổng hợp protein vi sinh vật, sau đó vi sinh vật đi xuống ruột non nơi chúng được tiêu hóa và hấp thu. Amoniac đi vào máu có thể được tiết ra từ cơ thể động vật vào nước tiểu. Mặc dù đã có hơn 100 sản phẩm chế biến từ phụ phẩm động vật được Hiệp hội các nhà quản lý thức ...

Tài liệu được xem nhiều: