Danh mục

Thị trường thế giới của các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm giết mổ

Số trang: 15      Loại file: pdf      Dung lượng: 530.68 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các nhà chế biến phụ phẩm giết mổ hiệu quả thời nay chủ yếu tập trung ở khu vực Bắc Mỹ nơi chế biến gần 25 triệu tấn nguyên liệu thô mỗi năm, ở Liên minh châu Âu (EU) với khoảng 15 triệu tấn/năm và ở các nước dẫn đầu về chăn nuôi gia súc và chế biến thịt như Achentina, Australia, Brazil, Uruguay và New Zealand, với khoảng 10 triệu tấn/năm. Giá trị sản phẩm bán ra của ngành chế biến phụ phẩm giết mổ trên toàn thế giới ước tính dao động từ 6-8 tỷ đô la mỗi năm. Ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ toàn cầu cung cấp sản phẩm có tính quyết định đối với các ngành công nghiệp khác trên thế giới và ngành cũng đang phát triển các sản phẩm mới như các nhiên liệu sinh học và các enzym để đáp ứng nhu cầu đang thay đổi trên toàn thế giới. Các sản phẩm chế biến bao gồm các loại mỡ động vật nhai lại, mỡ lợn dạng rắn và mỡ mềm ăn được và không ăn được, các loại mỡ dùng trong thức ăn chăn nuôi (mỡ mềm vàng và mỡ gia cầm), các loại bột protein động vật, da bì và xương dạng gel. Protein và mỡ chất lượng cao cải thiện mức dinh dưỡng cho gia súc, gia cầm và các sinh vật cảnh. Các nhà chế biến phụ phẩm còn phân phối các nguyên liệu cần thiết cho các sản phẩm công nghiệp như a xít béo, chất bôi trơn, chất dẻo, mực in và các loại thuốc nổ; cũng như các sản phẩm tiêu dùng như xà phòng, mỹ phẩm, kem cạo râu, chất khử mùi, nước hoa, xi đánh giày, chất tẩy rửa, màu vẽ, nến và các chất keo dán.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thị trường thế giới của các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm giết mổ THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI CỦA CÁC SẢN PHẨM CHẾ BIẾN TỪ PHỤ PHẨM GIẾT MỔ Kent Jay Swisher Phó Chủ tịch, Các chương trình quốc tế Hiệp hội các nhà chế biến phụ phẩm quốc gia Tóm tắt Các nhà chế biến phụ phẩm giết mổ hiệu quả thời nay chủ yếu tập trung ở khu vực Bắc Mỹ nơi chế biến gần 25 triệu tấn nguyên liệu thô mỗi năm, ở Liên minh châu Âu (EU) với khoảng 15 triệu tấn/năm và ở các nước dẫn đầu về chăn nuôi gia súc và chế biến thịt như Achentina, Australia, Brazil, Uruguay và New Zealand, với khoảng 10 triệu tấn/năm. Giá trị sản phẩm bán ra của ngành chế biến phụ phẩm giết mổ trên toàn thế giới ước tính dao động từ 6-8 tỷ đô la mỗi năm. Ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ toàn cầu cung cấp sản phẩm có tính quyết định đối với các ngành công nghiệp khác trên thế giới và ngành cũng đang phát triển các sản phẩm mới như các nhiên liệu sinh học và các enzym để đáp ứng nhu cầu đang thay đổi trên toàn thế giới. Các sản phẩm chế biến bao gồm các loại mỡ động vật nhai lại, mỡ lợn dạng rắn và mỡ mềm ăn được và không ăn được, các loại mỡ dùng trong thức ăn chăn nuôi (mỡ mềm vàng và mỡ gia cầm), các loại bột protein động vật, da bì và xương dạng gel. Protein và mỡ chất lượng cao cải thiện mức dinh dưỡng cho gia súc, gia cầm và các sinh vật cảnh. Các nhà chế biến phụ phẩm còn phân phối các nguyên liệu cần thiết cho các sản phẩm công nghiệp như a xít béo, chất bôi trơn, chất dẻo, mực in và các loại thuốc nổ; cũng như các sản phẩm tiêu dùng như xà phòng, mỹ phẩm, kem cạo râu, chất khử mùi, nước hoa, xi đánh giày, chất tẩy rửa, màu vẽ, nến và các chất keo dán. Hàng năm Hoa Kỳ xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng. Tuy nhiên, năm 2004, con số này tụt xuống còn 20% do ảnh hưởng của bệnh bò điên (BSE) ở Bắc Mỹ. Buôn bán và sử dụng các loại mỡ động vật hầu như không bị ảnh hưởng bởi các qui định hạn chế buôn bán các sản phẩm có nguy cơ phát tán bệnh bò điên vì Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và OIE đã đưa mỡ động vật nhai lại vào danh sách các sản phẩm an toàn trong thương mại nếu có hàm lượng tạp chất không hòa tan tối đa là 0,15% (OIE là một tổ chức liên kết giữa các chính phủ có liên quan đến việc đưa ra các tiêu chuẩn đánh giá để kiểm soát bệnh tật của động vật). Tại thời điểm này, Trung Quốc được biết đến là nước duy nhất còn duy trì lệnh cấm nhập khẩu mỡ động vật từ Bắc Mỹ. Tuy nhiên, protein động vật đang còn được xem xét kỹ lưỡng hơn nhiều. Tại thời điểm viết cuốn sách này protein từ động vật nhai lại bị tất cả các nhà nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ cấm, trong khi các loại bột có nguồn gốc từ gia cầm và lợn được đối xử tốt hơn. Cần lưu ý rằng việc sản xuất và buôn bán các loại bột thịt xương (MBM) là bao gồm cả MBM động vật nhai lại, bột có nguồn gốc từ lợn và từ gia cầm. Các loại bột protein có nguồn gốc từ động vật không nhai lại không bị ảnh hưởng bởi những quan ngại liên quan đến bệnh BSE. Mặc dù các số liệu thống kê về số lượng sản xuất và kinh doanh gộp tất cả các loại sản phẩm này làm một loại và gọi chung là MBM nhưng tác giả sẽ cố gắng tách riêng các loại sản phẩm khi cần thiết. Triển vọng cho các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm giết mổ, đặc biệt là các loại bột protein động vật là rất tốt. Cho dù có rất nhiều trở ngại trong công việc kinh doanh toàn cầu các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm giết mổ nhưng nhu cầu các sản phẩm này vẫn tăng rất mạnh và nhu cầu này sẽ trở thành chất xúc tác cho sự phát triển trở lại của công việc kinh doanh. Lịch sử kinh doanh toàn cầu các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm giết mổ– Những năm đầu tiên (từ những năm 1800 đến 1945) 201 Trong những năm đầu tiên các sản phẩm được chế biến và buôn bán chủ yếu là nhằm thu hồi mỡ và kinh doanh các nguyên liệu để sản xuất mỡ động vật nhai lại, xà phòng, keo dán và nến. Giá trị của các sản phẩm này là không thể bỏ qua. Ví dụ, trong cuốn The Cattle on a Thousand Hills, tác giả Robert Glass Cleland đã viết về sự phù hợp giữa hai nhà tiên phong phương Tây khi đã chuyển đổi việc bán nguyên một con bò thiến thành việc bán mỡ với 16 đô la/con và chỉ bán thịt với 6 đô la/con. Mỡ động vật nhai lại có giá trị khoảng 0,20 đô la/pound và tương tự với giá bán ngày nay tính theo giá trị tuyệt đối. Tuy nhiên, giá 0,20 đô la/pound vào năm 1880 phải tương đương với 3,67 đô la/pound nếu chuyển sang thời điểm 2004 bằng việc sử dụng Chỉ số giá cả tiêu dùng, thế những giá thực tế năm 2004 chỉ xấp xỉ 0,19 đô la/pound. Điều này cho thấy tầm quan trọng của mỡ động vật trong những năm đầu tiên của ngành công nghiệp này. Trước thời kỳ suy thoái, Hoa Kỳ đã nhập khẩu một lượng tương đối lớn các loại dầu có tính cạnh tranh như dầu dừa, dầu cọ và dầu cá heo, trong khi họ lại xuất khẩu với số lượng ít hơn rất nhiều các loại mỡ động vật nhai lại và mỡ lợn dạng rắn. Rõ ràng Hoa Kỳ là nước nhập khẩu các sản phẩm dầu và mỡ. Vào năm 1932, giá dầu dừa nhập khẩu, chủ yếu từ Philippines, đã giảm xuống ngang mức giá của mỡ chế biến. Giá dầu dừa chỉ xấp xỉ 0,02 đô la/pound và đã làm cho giá của các loại mỡ động vật cũng giảm xuống đến mức tương tự. Đây là mức giá thấp nhất trong lịch sử và tương đương với mức giảm 75% mức giá trung bình thông thường. Trong những năm gần đây, các chuyên gia thương mại đã học được cách nói về kinh doanh bình đẳng thay vì chỉ nói về kinh doanh tự do. Vấn đề khó khăn của thương mại toàn cầu này đã đe dọa sự tồn tại của các nhà chế biến phụ phẩm giết mổ trong thời kỳ đầu những năm 1930 và trở thành lời kêu gọi tập hợp ngành công nghiệp tổ chức và thành lập Hội các nhà sản xuất mỡ không dùng cho người của Hoa Kỳ năm 1933. Tổ chức này sau đó trở thành Hiệp hội các nhà chế biến phụ phẩm giết mổ Quốc gia (NRA). Hành động đầu tiên của tổ chức này là vận động hành lang một cách thành công để chính phủ áp đặt cái gọi là thuế đánh vào dầu và mỡ, sau này trở thành một phần của Dự thảo luậ ...

Tài liệu được xem nhiều: