Phương pháp tiếp cận thực tế: Làm thế nào để ngăn chặn hội chứng tôm chết sớm (EMS) trong trại nuôi tôm
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 115.89 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
A. Phương pháp tiếp cận thực tế: Làm thế nào để ngăn chặn hội chứng tôm chết sớm (EMS) trong trại nuôi tôm Một căn bệnh tôm mới nổi lên được biết đến như là hội chứng tôm chết sớm (EMS) hay hội chứng hoại tử tuyến gan tụy cấp (AHPNS) đã được báo cáo là nguyên nhân mất mát đáng kể cho các trại tôm ở Trung Quốc (2009),
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phương pháp tiếp cận thực tế: Làm thế nào để ngăn chặn hội chứng tôm chết sớm (EMS) trong trại nuôi tôm Phương pháp tiếp cận thực tế: Làm thế nào để ngăn chặn hội chứng tôm chết sớm (EMS) trong trại nuôi tômA. Phương pháp tiếp cận thực tế: Làm thế nào để ngăn chặn hội chứng tôm chếtsớm (EMS) trong trại nuôi tômMột căn bệnh tôm mới nổi lên được biết đến như là hội chứng tôm chết sớm(EMS) hay hội chứng hoại tử tuyến gan tụy cấp (AHPNS) đã được báo cáo lànguyên nhân mất mát đáng kể cho các trại tôm ở Trung Quốc (2009), Việt Nam(2010) và Malaysia (2011). Gần đây tại Thái Lan (2012), hội chứng đó đã đượcbáo cáo có ảnh hưởng đến trại tôm phía Đông và các tỉnh thành phía Nam vịnhThái Lan. Căn bệnh cũng ảnh hưởng đến cả hai loài tôm sú (Peanaeus monodo) vàtôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (vannamei) và được định rõ đặc điểm bởi tỷlệ chết hàng loạt (một vài trường hơp lên tới tỷ lệ 100%) trong suốt quá trình 20-30ngày đầu tiên nuôi trồng (giai đoạn thả giống ấu trùng ra ao nuôi thương phẩm)liên tục ảnh hưởng đến tôm cho thấy tuyến gan tụy không bình thường, điều đólàm tôm teo lại, màu nhạt, vỏ mềm và cơ trắng dẫn đến việc tôm hấp hối chìmxuống đáy ao.Các loài vi khuẩn khác nhau, đã được tách biệt tôm, như thể thực khuẩn và ký sinhtrùng sống theo nhóm cũng được tìm thấy. Tuy nhiên, cho đến nay vài nhà khoahọc vẫn chưa thể xác định nguyên nhân chính xác hội chứng EMS bởi vì tiên đềKoch không thể trình bày rõ. Khi mà vi sinh vật được tìm thấy trong cơ thể tômbệnh được tách biệt, nuôi cấy và sử dụng để chủng ngừa tôm khỏe mạnh từ ao hồđược đặt chung một bể với tôm bệnh EMS trong phòng thí nghiệm, tôm khỏemạnh không còn bị hội chứng EMS. Đó không phải là một căn bệnh lây nhiễmnghiêm trọng như hội chứng vi-rút tôm chân trắng hay vi-rút tôm đầu vàng.Tôm Litopenaeus vannamei nhiễm AHPNS (bên trái) và tôm khỏe (bên phải) ởViệt NamHầu hết tôm chết trong vòng 30 ngày giai đoạn thả ấu trùng, điều đó giống như làmột nguyên nhân chính gây EMS là hậu ấu trùng không khỏe. Một lượng lớn vikhuẩn Vibrio được tìm thấy trong tuyến gan tụy của tôm đang chết dần, thôngthường EMS xuất hiện trong ao không được chuẩn bị tốt vào thời điểm có mưa lớnvà liên tục. Một nghiên cứu mở rộng ở những ao tôm mắc EMS và những ao gầnkhu vực không có EMS, thực hiện từ cuối năm 2011 đến cuối năm 2012, dẫn đếnmột số thông tin có thể giúp người nuôi tôm ngăn chặn EMS.1. Lựa chọn tôm giống khỏe mạnhNgười nuôi tôm nên thả tôm giống ít nhất là là loại Post 10 (PL 10) nếu đang sửdụng nước mặn bình thường trong ao, nhưng nếu nước có độ mặn dưới 15 ppt, nênthả tôm giống lớn hơn PL 10. Tôm giống lúc này đã hình thành gan tụy hoàn toàn.Tôm phải có kích thước lớn, đậm màu, và có trọng lượng lớn khi quan sát dướikính hiển vi với giọt lipid. Tỉ lệ cơ thịt từ ruột đến đốt bụng thứ 6 nên lớn hơn 4:1.Chọn nguồn gốc tôm giống ở các trại ương giống với mật độ bình thường khoảng100.000 – 150.000 ấu trùng nauplius/m3, không quá dày, và giai đoạn ương giốngkhông dùng thuốc kháng sinh.Khi biết được nhiệt độ nước trong suốt quá trình ương nuôi tôm giống sẽ có lợihơn. Khi nhiệt độ thấp tôm giống có thể ăn ít hơn, yếu hơn và phát triển chậm. Nếucó thể đánh giá chất lượng của tôm giống, phương pháp này còn được dùng đểđánh giá tôm sú giống, tính cả tổng lượng lipid và vi khuẩn Vibrio trong gan tụy.2. Chuẩn bị ao và nguồn nướcPhải khử trùng nguồn nước ở những nơi đã có sự bùng phát của EMS hoặc virusgây hội chứng đốm trắng. Điều này có thể được thực hiện bằng cách thêm Chlorine(calcium hypochlorite) ở mức nồng độ được khuyến cáo hoặc sử dụng hóa chấtkhử trùng khác. Không được sử dụng thuốc trừ sâu như Trichlorfon hoặccypermenthrin (một pyrethroid tổng hợp) để tiêu diệt các sinh vật mang vi-rút trêntôm hoặc cua tự nhiên – vì thuốc trừ sâu không thể loại bỏ hết nguồn nước đãnhiễm bệnh – nguyên nhân tạo nên hệ vi sinh vật gây bệnh hoặc ký sinh trùng. Đốivới nguồn nước có nhiều chất lắng đọng, nên để lắng nước trong một thời giantrước khi được bơm vào ao tôm để xử lý.3. Hạn chế những điều kiện gây bệnh cho Tôm3.1. Độ pH của nước không nên quá thấp trong tháng đầu tiênKhông thêm quá nhiều chế phẩm sinh học hoặc vi sinh vật có lợi để phân hủy cácchất hữu cơ ở giai đoạn đầu của thời gian nuôi hoặc giai đoạn chuẩn bị nguồn nướcđể giữ sạch nước trong giai đoạn này. Cẩn thận khi thêm vi sinh vật có lợi để làmgiảm độ pH của nước để ngăn ngừa vi khuẩn Vibrio phát triển hoặc làm giảm độctính của amoniac. Độ pH của nước thấp hơn 7,5 vào buổi sáng có thể làm nguy hạicho tôm. Tôm nuôi trong ao bị ảnh hưởng bởi lượng mưa lớn. Nếu có mưa lớntrong nhiều ngày, độ pH của nước sẽ giảm. Độ kiềm của nước cũng sẽ giảm xuống,vì thực tế nước mưa không có độ kiềm và độ pH của nước mưa là 6,8-6,9. Lượngmưa nhiều hơn theo chu kỳ là nguyên nhân làm cho độ pH và độ kiềm của nướcgiảm. Ở một số nơi, như Rayong, Chantaburi, và các tỉnh Chachoengsao (phíaĐông Thái Lan), vào những thời điểm khi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phương pháp tiếp cận thực tế: Làm thế nào để ngăn chặn hội chứng tôm chết sớm (EMS) trong trại nuôi tôm Phương pháp tiếp cận thực tế: Làm thế nào để ngăn chặn hội chứng tôm chết sớm (EMS) trong trại nuôi tômA. Phương pháp tiếp cận thực tế: Làm thế nào để ngăn chặn hội chứng tôm chếtsớm (EMS) trong trại nuôi tômMột căn bệnh tôm mới nổi lên được biết đến như là hội chứng tôm chết sớm(EMS) hay hội chứng hoại tử tuyến gan tụy cấp (AHPNS) đã được báo cáo lànguyên nhân mất mát đáng kể cho các trại tôm ở Trung Quốc (2009), Việt Nam(2010) và Malaysia (2011). Gần đây tại Thái Lan (2012), hội chứng đó đã đượcbáo cáo có ảnh hưởng đến trại tôm phía Đông và các tỉnh thành phía Nam vịnhThái Lan. Căn bệnh cũng ảnh hưởng đến cả hai loài tôm sú (Peanaeus monodo) vàtôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (vannamei) và được định rõ đặc điểm bởi tỷlệ chết hàng loạt (một vài trường hơp lên tới tỷ lệ 100%) trong suốt quá trình 20-30ngày đầu tiên nuôi trồng (giai đoạn thả giống ấu trùng ra ao nuôi thương phẩm)liên tục ảnh hưởng đến tôm cho thấy tuyến gan tụy không bình thường, điều đólàm tôm teo lại, màu nhạt, vỏ mềm và cơ trắng dẫn đến việc tôm hấp hối chìmxuống đáy ao.Các loài vi khuẩn khác nhau, đã được tách biệt tôm, như thể thực khuẩn và ký sinhtrùng sống theo nhóm cũng được tìm thấy. Tuy nhiên, cho đến nay vài nhà khoahọc vẫn chưa thể xác định nguyên nhân chính xác hội chứng EMS bởi vì tiên đềKoch không thể trình bày rõ. Khi mà vi sinh vật được tìm thấy trong cơ thể tômbệnh được tách biệt, nuôi cấy và sử dụng để chủng ngừa tôm khỏe mạnh từ ao hồđược đặt chung một bể với tôm bệnh EMS trong phòng thí nghiệm, tôm khỏemạnh không còn bị hội chứng EMS. Đó không phải là một căn bệnh lây nhiễmnghiêm trọng như hội chứng vi-rút tôm chân trắng hay vi-rút tôm đầu vàng.Tôm Litopenaeus vannamei nhiễm AHPNS (bên trái) và tôm khỏe (bên phải) ởViệt NamHầu hết tôm chết trong vòng 30 ngày giai đoạn thả ấu trùng, điều đó giống như làmột nguyên nhân chính gây EMS là hậu ấu trùng không khỏe. Một lượng lớn vikhuẩn Vibrio được tìm thấy trong tuyến gan tụy của tôm đang chết dần, thôngthường EMS xuất hiện trong ao không được chuẩn bị tốt vào thời điểm có mưa lớnvà liên tục. Một nghiên cứu mở rộng ở những ao tôm mắc EMS và những ao gầnkhu vực không có EMS, thực hiện từ cuối năm 2011 đến cuối năm 2012, dẫn đếnmột số thông tin có thể giúp người nuôi tôm ngăn chặn EMS.1. Lựa chọn tôm giống khỏe mạnhNgười nuôi tôm nên thả tôm giống ít nhất là là loại Post 10 (PL 10) nếu đang sửdụng nước mặn bình thường trong ao, nhưng nếu nước có độ mặn dưới 15 ppt, nênthả tôm giống lớn hơn PL 10. Tôm giống lúc này đã hình thành gan tụy hoàn toàn.Tôm phải có kích thước lớn, đậm màu, và có trọng lượng lớn khi quan sát dướikính hiển vi với giọt lipid. Tỉ lệ cơ thịt từ ruột đến đốt bụng thứ 6 nên lớn hơn 4:1.Chọn nguồn gốc tôm giống ở các trại ương giống với mật độ bình thường khoảng100.000 – 150.000 ấu trùng nauplius/m3, không quá dày, và giai đoạn ương giốngkhông dùng thuốc kháng sinh.Khi biết được nhiệt độ nước trong suốt quá trình ương nuôi tôm giống sẽ có lợihơn. Khi nhiệt độ thấp tôm giống có thể ăn ít hơn, yếu hơn và phát triển chậm. Nếucó thể đánh giá chất lượng của tôm giống, phương pháp này còn được dùng đểđánh giá tôm sú giống, tính cả tổng lượng lipid và vi khuẩn Vibrio trong gan tụy.2. Chuẩn bị ao và nguồn nướcPhải khử trùng nguồn nước ở những nơi đã có sự bùng phát của EMS hoặc virusgây hội chứng đốm trắng. Điều này có thể được thực hiện bằng cách thêm Chlorine(calcium hypochlorite) ở mức nồng độ được khuyến cáo hoặc sử dụng hóa chấtkhử trùng khác. Không được sử dụng thuốc trừ sâu như Trichlorfon hoặccypermenthrin (một pyrethroid tổng hợp) để tiêu diệt các sinh vật mang vi-rút trêntôm hoặc cua tự nhiên – vì thuốc trừ sâu không thể loại bỏ hết nguồn nước đãnhiễm bệnh – nguyên nhân tạo nên hệ vi sinh vật gây bệnh hoặc ký sinh trùng. Đốivới nguồn nước có nhiều chất lắng đọng, nên để lắng nước trong một thời giantrước khi được bơm vào ao tôm để xử lý.3. Hạn chế những điều kiện gây bệnh cho Tôm3.1. Độ pH của nước không nên quá thấp trong tháng đầu tiênKhông thêm quá nhiều chế phẩm sinh học hoặc vi sinh vật có lợi để phân hủy cácchất hữu cơ ở giai đoạn đầu của thời gian nuôi hoặc giai đoạn chuẩn bị nguồn nướcđể giữ sạch nước trong giai đoạn này. Cẩn thận khi thêm vi sinh vật có lợi để làmgiảm độ pH của nước để ngăn ngừa vi khuẩn Vibrio phát triển hoặc làm giảm độctính của amoniac. Độ pH của nước thấp hơn 7,5 vào buổi sáng có thể làm nguy hạicho tôm. Tôm nuôi trong ao bị ảnh hưởng bởi lượng mưa lớn. Nếu có mưa lớntrong nhiều ngày, độ pH của nước sẽ giảm. Độ kiềm của nước cũng sẽ giảm xuống,vì thực tế nước mưa không có độ kiềm và độ pH của nước mưa là 6,8-6,9. Lượngmưa nhiều hơn theo chu kỳ là nguyên nhân làm cho độ pH và độ kiềm của nướcgiảm. Ở một số nơi, như Rayong, Chantaburi, và các tỉnh Chachoengsao (phíaĐông Thái Lan), vào những thời điểm khi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
cá nước ngọt nuôi trồng thủy sản tôm hùm đỏ kỹ thuật nuôi tôm dinh dưỡng cho tôm tôm càng xanh ấu trùng tôm càng xanh Monoglycerides ngăn chặn EMSGợi ý tài liệu liên quan:
-
78 trang 343 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 230 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 228 0 0 -
225 trang 216 0 0
-
13 trang 212 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 190 0 0 -
2 trang 188 0 0
-
13 trang 181 0 0
-
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 177 0 0 -
91 trang 173 0 0