Thông tin tài liệu:
Ý tưởng xuyên suốt trong quá trình xây dựng chỉ số giá là phải cố định phần lượng, loại bỏ mọi yếu tố ảnh hưởng về giá trị để khảo sát sự thay đổi của riêng giá. Có như vậy chỉ số giá mới phản ánh đúng sự biến động về giá. Mọi công thức, phương pháp không thực hiện được ý tưởng này đều sai với lý luận và chắc chắn chỉ số giá không phản ánh đúng sự biến động của giá.......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu
Phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu
Năm 1999, UBCKNN có một đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ mang tên:
Cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng chỉ số giá chứng khoán và một số gợi ý
cho Việt Nam. Đề tài đã được hội đồng khoa học do TS.Lê Văn Châu Chủ tịch
UBCKNN làm chủ tịch Hội đồng nghiệm thu, đánh giá hoàn thành ở mức độ xuất
sắc. Trong bài viết nhỏ này chúng tôi chỉ xin giới thiệu một phần của công trình
nghiên cứu khoa học trên, đó là các phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu và việc
vận dụng nó ở nước ta hiện nay, nhất là trong giai đoạn đầu của sự phát triển thị
trường chứng khoán.
Mục tiêu cơ bản của việc xây dựng chỉ số giá nói chung là xây dựng hệ
thống chỉ tiêu phản ánh sự biến động của giá theo thời gian. Chỉ số giá cổ phiếu
cũng vậy nó là chỉ tiêu phản ánh sự thay đổi của giá cổ phiếu theo thời gian.
Ý tưởng xuyên suốt trong quá trình xây dựng chỉ số giá là phải cố
định phần lượng, loại bỏ mọi yếu tố ảnh hưởng về giá trị để khảo sát sự
thay đổi của riêng giá. Có như vậy chỉ số giá mới phản ánh đúng sự biến
động về giá. Mọi công thức, phương pháp không thực hiện được ý tưởng này
đều sai với lý luận và chắc chắn chỉ số giá không phản ánh đúng sự biến động
của giá.
Để thực hiện được mục tiêu và ý tưởng trên, có 3 vấn đề cần giải quyết
trong quá trình xây dựng chỉ số giá cổ phiếu, đó là:
- Chọn phương pháp
- Chọn rổ đại diện
- Tìm biện pháp trừ khử các yếu tố về giá trị để đảm bảo chỉ số giá
chỉ phản ánh sự biến động của riêng giá.
1- Phương pháp tính
Hiện nay các nước trên thế giới dùng 5 phương pháp để tính chỉ số giá cổ
phiếu, đó là:
Phương pháp Passcher:
Đây là loại chỉ số giá cổ phiếu thông dụng nhất và nó là chỉ số giá bình
quân gia quyền giá trị với quyền số là số lượng chứng khoán niêm yết thời
kỳ tính toán. Kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số thời kỳ tính toán:
Người ta dùng công thức sau để tính.
∑ qt pt
I p = -------------
∑ qt po
Trong đó: Ip : Là chỉ số giá Passcher
pt : Là giá thời kỳ t
po : Là giá thời kỳ gốc
qt : Là khối lượng (quyền số) thời điểm tính toán ( t )
hoặc cơ cấu của khối lượng thời điểm tính toán.
i Là cổ phiếu i tham gia tính chỉ số giá
n là số lượng cổ phiếu đưa vào tính chỉ số
Chỉ số giá bình quân Passcher là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị lấy
quyền số là quyền số thời kỳ tính toán, vì vậy kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ
cấu quyền số (cơ cấu chứng khoán niêm yết) thời tính toán.
Các chỉ số KOSPI (Hàn quốc); S&P500(Mỹ); FT-SE 100 (Anh) ; TOPIX
(Nhật) ; CAC (Pháp); TSE (Đài loan); Hangseng (Hồng công); các chỉ số của
Thuỵ Sỹ,.. và VnIndex của Việt Nam áp dụng phương pháp này.
Phương pháp Laspeyres.
Chỉ số giá bình quân Laspeyres là chỉ số giá bình quân gia quyền giá
trị, lấy quyền số là số cổ phiếu niêm yết thời kỳ gốc. Như vậy kết quả tính
sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số thời kỳ gốc:
∑ qo pt
I l = -------------
∑ qo po
Trong đó: IL : Là chỉ số giá bình quân Laspeyres
pt : Là giá thời kỳ báo cáo
po : Là giá thời kỳ gốc
qo : Là khối lượng (quyền số) thời kỳ gốc hoặc cơ cấu
của khối lượng c (số lượng cổ phiếu niêm yết) thời kỳ gốc
i Là cổ phiếu i tham gia tính chỉ số giá
n là số lượng cổ phiếu đưa vào tính chỉ số
Có ít nước áp dụng phương pháp này, đó là chỉ số FAZ, DAX của Đức
Chỉ số giá bình quân Fisher
Chỉ số giá bình quân Fisher là chỉ số giá bình quân nhân giữa chỉ số
giá Passcher và chỉ số giá Laspayres: Phương pháp này trung hoà được yếu
điểm của hai phương pháp trên, tức là giá trị chỉ số tính toán ra phụ thuộc vào
quyền số của cả 2 thời kỳ: Kỳ gốc và kỳ tính toán
I F = √ IP x I L
Trong đó: I F : Là chỉ số giá Fisher
IP : Là chỉ số giá Passche
I L : Là chỉ số giá bình quân Laspeyres
Về mặt lý luận có phương pháp này, nhưng trong thống kê chúng tôi
không thấy nó áp dụng ở bất kỳ một quốc giá nào.
Phương pháp số bình quân giản đơn:
Ngoài các phương pháp trên, phương pháp tính giá bình quân giản đơn
cũng thường được áp dụng. Công thức đơn giản là lấy tổng thị giá của chứng
khoán chia cho số chứng khoán tham gia tính toán:
∑ pi
Ip = -------------
n
Trong đó: I p là giá bình quân;
Pi là giá Chứng khoán i;
n là số lượng chứng khoán đưa vào tính toán.
Các chỉ số họ Dow Jone của Mỹ; Nikkei 225 của Nhật; MBI của Ý áp
dụng phương pháp này. Phương pháp này sẽ tốt khi mức giá của các cổ phiếu
tham gia niêm yết khá đồng đều, hay độ lệch chuẩn (σ ) của nó thấp.
Phương pháp bình quân nhân giản đơn
I p = √ Π Pi
Chúng ta chỉ nên dùng loại chỉ số này khi độ lệch chuẩn khá cao, ( σ ) cao.
Các chỉ số: Value line (Mỹ); FT-30 (Anh) áp dụng phương pháp bình quân nhân
giản đơn này.
Tuy nhiên về mặt lý luận, chúng ta có thể tính theo phương pháp bình quân
cộng hoặc bình quân nhân gia quyền với quyền số là số chứng khoán niêm yết.
Quyền số thường được dùng trong tính toán chỉ số giá cổ phiếu là số
chứng khoán niêm yết. Riêng ở Đài Loan thì họ dùng số chứng khoán trong lưu
thông làm quyền số, bởi vì tỷ lệ đầu tư của công chúng rất cao ở đây (80 .. 90%).
2. Chọn rổ đại diện.
Một nhiệm vụ thứ hai quan trọng trong việc xây dựng chỉ số giá chứng
khoán là việc chọn rổ đại diện. Ở Sở giao dịch chứng khoán New york có trên
3000 cổ phiếu niêm yết, nhưng chỉ số tổng hợp Dow Jone chỉ bao gồ ...