Danh mục

Quan Hệ Giữa Nho Giáo Và Phật Giáo Ở Việt Nam

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 147.81 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (14 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Quan Hệ Giữa Nho Giáo Và Phật Giáo Ở Việt Nam Tác giả: Minh Chi I. PHẬT-GIÁO, NHO-GIÁO VÀ LÃO-GIÁO Ở TRUNG HOA VÀO ĐẦU CÔNG NGUYÊN 1. Những đặc điểm chung của Phật-giáo, Nho-giáo và Lão-giáo ở Trung Hoa đầu công nguyên. Nho-giáo là một hệ thống chính trị tôn giáo đứng đầu là nhà vua, con Trời (thiên tử), nhận mệnh của Trời (thiên mệnh) để cai trị nhân dân vì hạnh phúc của nhân dân.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan Hệ Giữa Nho Giáo Và Phật Giáo Ở Việt Nam Quan Hệ Giữa Nho Giáo Và Phật Giáo Ở Việt Nam Tác giả: Minh Chi I. PHẬT-GIÁO, NHO-GIÁO VÀ LÃO-GIÁO Ở TRUNG HOA VÀO ĐẦU CÔNG NGUYÊN 1. Những đặc điểm chung của Phật-giáo, Nho-giáo và Lão-giáo ở Trung Hoa đầu công nguyên. Nho-giáo là một hệ thống chính trị tôn giáo đứng đầu là nhà vua, con Trời (thiên tử), nhận mệnh của Trời (thiên mệnh) để cai trị nhân dân vì hạnh phúc của nhân dân. Chừng nào mà vua làm tròn thiên mệnh, nhân dân dưới quyền cai trị của vua được hưởng hòa bình và hạnh phúc thì đó là vua hiền, con người vua là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Trái lại, nếu đó là một ông vua ác, mà sự cai trị làm cho nhân dân điêu đứng khổ sở, thì tức là ông vua ác đó đã đánh mất mệnh trời và nhân dân có quyền chính đáng nổi dậy, lật đổ ông vua ác đó và cử người khác lên thay. Thay bậc đổi ngôi cũng là do mệnh trời. Nếu cuộc khởi nghĩa thành công, một ông vua khác lên thay, thì đó cũng là do mệnh trời. Nếu không phải là mệnh trời, thì cuộc khởi nghĩa ắt thất bại. Ở đây, không có chuyện bầu bán gì hết. Tính tôn giáo của hệ thống Nho-giáo chính là ở chỗ này. Để phò tá vua làm tròn trách mệnh trời, Nho-giáo tạo ra một bộ máy quan liêu gồm những Nho-sĩ được tuyển lựa qua thi cử. Các đề thi được chọn trong các sách kinh điển của Nho-giáo (Tứ Thư, Ngũ Kinh), dạy đạo làm người, làm vua, làm tôi, làm cha, làm con v.v... Sự ổn định và hài hòa của xã hội được bảo đảm nếu mọi người trong xã hội, từ vua quan cho đến người dân thường đều làm tròn chức phận của mình (Khổng Tử nói: quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử. Nghĩa là vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con...) Dưới đời nhà Hán, vào đầu công nguyên, hệ thống chính trị tôn giáo của Nho-giáo có thu hút thêm một vài yếu tố Lão-giáo và các hệ tín ngưỡng ngoại lai. Nói chung lại, dưới thời Hán, hệ thống chính trị tôn giáo Nho-giáo bao gồm những tín điều sau đây: 1) Tin rằng, Trời hay là một vị Thần tối cao thường xuyên xem xét mọi hành vi đạo đức hay phi đạo đức của con người (kể cả vua và các quan cai trị phò tá vua). 2) Tin rằng con người là loài sinh vật cao quý nhất, được trời đất tạo ra, và được trời ưu đãi, phù hộ. 3) Tin ở luật nhân quả làm thiện được quả lành, làm ác chịu quả dữ. 4) Tin rằng có mối liên hệ qua lại giữa Trời và người. Tùy theo hành vi đạo đức hay phi đạo đức của con người mà Trời có thể báo điềm lành hay điềm dữ. 5) Tin ở thuật chiêm tinh, có thể đoán biết ý của Trời qua các điềm lành hay dữ. Những tư tưởng trên của Khổng-giáo thời Hán, tuy đã trở thành chính thống do được vua quan trong triều ủng hộ, nhưng không phải được toàn thể lớp Nho sĩ thời bấy giờ chấp nhận. Trên thực tế, chúng ta không gặp được Khổng-giáo thuần túy, mà là một Khổng-giáo pha tạp những yếu tố không phải là của Khổng-giáo. Như trong trường hợp từ cuối đời Hậu hán về sau, thì đó là một tổng hợp Khổng-giáo và các biện pháp của Pháp gia (bắt nguồn từ Hàn Phi Tử và Lý Tư đời Tần Thủy Hoàng), và những yếu tố mê tín dị đoan, bắt nguồn từ Lão-giáo và tín ngưỡng dân gian. Sự pha tạp đó chứng tỏ sự bất lực của Khổng-giáo trong sự nghiệp duy trì ổn định và trật tự chính trị do vua đứng đầu. Đó là lý do sâu xa vì sao, từ cuối đời Hậu Hán trở đi, đông đảo sĩ phu trí thức và nhân dân Trung Quốc quay lưng với Khổng-giáo và tìm tới Lão-giáo và Phật-giáo. Đó là khởi nguyên của những tư trào Lão-giáo như thanh đàm, ảo kim thuật để tìm ra thuốc trường sinh bất tử, tìm ra hòn đá luyện vàng, một chế độ ăn uống đặc biệt (tịch cốc), phép luyện thở v.v... Nhưng so với Lão-giáo, thì Phật-giáo đã thành công hơn nhiều. Sự thành công này bắt đầu trước hết ở các dân tộc phi Hán trong thời đại mà sử Trung Hoa gọi là Ngũ Hồ. Chắc chắn là vì ở đây, các bộ tộc phi Hán không xem Phật-giáo là một tôn giáo ngoại lai, cũng không có mặc cảm dân tộc lớn nhưĐại Hán. Nhưng điều cần tìm hiểu là sự bành trướng của đạo Phật ở các vùng miền Nam trong các thời kỳ Ngũ Đại và Tùy Đường, tại những vùng toàn là người Hán. Phải chăng, sau khi nhà Tây Tấn bị nước Diêu Tần phi Hán tiêu diệt, lớp sĩ phu tri thức Trung Quốc di cư xuống phía Nam thành lập ra nhà Đông Tấn, đóng đô ở Nam Kinh, không còn mấy tin tưởng vào Khổng-giáo. Nói chung, các vua thời Ngũ Đại đều ủng hộ Phật-giáo, đặc biệt là vua Lương Vũ Đế nhà Lương. Sự hấp dẫn của Phật-giáo đối với lớp sĩ phu tri thức Trung Hoa thời bấy giờ có thể được giải thích bằng những yếu tố không tìm thấy được trong Khổng- giáo và Lão-giáo: 1) Một hệ thống đạo đức và triết học cao cấp hơn, siêu việt hơn. Người Trung Quốc có thể thực tiễn hơn, nhưng về mặt tư biện triết học theo chiều sâu Trung quốc và phương Tây khó theo kịp người Ấn Độ. 2) Một loạt những tư tưởng mới, khích lệ những hướng tư duy mới, sáng tạo, như thời gian vô tận, không gian vô biên với nhiều cõi sống khác nhau, dạng sống khác nhau. Khả năng thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử, đạt tới cảnh bất tử. Những tiềm năng siêu việt trong con người, mà Thiền định có thể khai thác và phát huy v.v... 3) ...

Tài liệu được xem nhiều: