Thông tin tài liệu:
• Nghĩa ngôn ngữ & nghĩa cú pháp • Nghĩa và giá trị của câu tạo thành nội dung của câu Cấu trúc của một câu là và ý niệm mà cấu trúc này biểu hiện vốn làm thành nghĩa của câu là hai diện cần phân biệt. Nghĩa là lí do tồn tại của cấu trúc. Cấu trúc nào thì nghĩa ấy. Mỗi cấu trúc tương ứng với với chức năng tải nghĩa nhất định. Vì vậy, vấn đề chọn phương tiện để biểu hiện nghĩa cần diễn đạt là quan trọng đối với cú pháp. Sẽ là sai...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan hệ nghĩa và cấu trúc trong việc phân tích câu tiếng Việt Quan hệ nghĩa và cấu trúc trong việc phân tích câu tiếng Việt• Nghĩa ngôn ngữ & nghĩa cú pháp • Nghĩa và giá trị của câu tạo thành nội dungcủa câuCấu trúc của một câu là và ý niệm mà cấu trúc này biểu hiện vốn làm thành nghĩacủa câu là hai diện cần phân biệt. Nghĩa là lí do tồn tại của cấu trúc. Cấu trúc nàothì nghĩa ấy. Mỗi cấu trúc tương ứng với với chức năng tải nghĩa nhất định. Vì vậy,vấn đề chọn phương tiện để biểu hiện nghĩa cần diễn đạt là quan trọng đối với cúpháp.Sẽ là sai lầm là nếu ai đó muốn nghiên cứu một hình thức, một cấu trúc câu nào đólại không tự đặt ra điều này: hình thức này, cấu trúc này phục vụ cho cái gì, biểuhiện cái gì, nhằm mục đích gì?1. Thế nào là nghĩa ngôn ngữ? Thế nào là nghĩa cú pháp?Mỗi đơn vị ngôn ngữ có nội dung nhất định và tiềm tàng trong nó một lượngthông tin nhất định. Khối lượng thông tin của mỗi đơn vị phụ thuộc vào đại lượng,đặc trưng và tính độc lập của đơn vị đó. Quả là rất khó nếu chúng ta phân biệt rànhmạch các khái niệm nội dung, ý nghĩa, thông tin trong một đơn vị ngôn ngữ. Tuynhiên, để tiện việc nhận diện nghĩa ngôn ngữ vàn nghĩa cú pháp, chúng ta có thểchấp nhận nội dung cơ bản của các khái niệm trên như sau:Nội dung của đơn vị ngôn ngữ là tổng thể các đặc trưng của khái niệm được đơn vịnày biểu hiện. Ý nghĩa của đơn vị ngôn ngữ là biểu thị một trong những đặc trưngcủa khái niệm đó. Thông tin của đơn vị ngôn ngữ là mức độ nội dung của đơn vịnày được thể hiện cụ thể nhằm mục đích thông báo cụ thể về phạm trù tồn tại –không tồn tại, xác định – không xác định; lí giải – hay thuyết minh, phủ định – haykhẳng định, nghi ngờ – hay mệnh lệnh v.v...Ý nghĩa của câu được xác định nhờ sự phân tích vị trí-chức năng của các đơn vịtạo thành sơ đồ cấu trúc câu. Vị trí, đến lượt mình, được xác định nhờ các kiểuquan hệ cú pháp nhất định. Các kiểu quan hệ cú pháp cơ bản là:1, Quan hệ chủ – vị, xác lập vị trí chủ ngữ và vị ngữ;2, Quan hệ xác định, xác lập vị trí của định ngữ;3, Quan hệ bổ sung, xác lập vị trí của bổ ngữ và trạng ngữ.Những mối quan hệ này gắn liền với ngữ nghĩa-cú pháp của đơn vị cú pháp.Những quan hệ trên đây tạo ra nghĩa của câu ở trong sự tác động qua lại của haiquan hệ cơ bản: quan hệ hệ hình & quan hệ cú đoạn trong cú pháp.Ở đây, cần nói rõ thêm về quan hệ hệ hình trong cú pháp. Quan hệ hệ hình đượcdùng trong cú pháp để miêu tả các biến thể câu và quy các phát ngôn thành cácloại hình khác nhau. Vai trò của phương pháp này đối với việc phân tích câu chỉ làbổ trợ khi phương pháp cú đoạn kém hiệu lực hoặc không thích hợp với một sốkiểu câu nào đó. Chẳng hạn, so sánh hai câu:(a) Tôi bảo anh vào nhà.(b) Tôi đặt con gà vào mâm.Về cú đoạn thì (a) và (b) như nhau, nhưng về hệ hình lại khác nhau. Sự khác nhaunày thể hiện ở các động từ bảo và đặt trong mối quan hệ với cú đoạn của mỗicâu.(a) Tôi bảo anh – anh vào nhà (+)(b) Tôi đặt con gà– con gà vào mâm (-)Nhưng thay đặt bằng một động từ đuổi cùng hệ hình với nó ta có:(b) Tôi đuổi con gà – con gà vào mâm (+).Hệ hình có tác dụng sau đây:- Phân loại cú pháp các câu, nhất là tìm các biến thể câu. Câu có thể chia thành cáctiểu loại, hoặc chia thành câu một thành phần và nhiều thành phần.- Phản ánh được các thuộc tính cần yếu đối với câu có cùng cấp độ, song, khôngthích hợp với tính đa dạng của câu ở các cấp độ khác nhau.Nghĩa của một câu vừa phụ thuộc vào nghĩa của những từ trong câu và phụ thuộcvào kết cấu cú pháp của cả câu. Điều này thể hiện rõ khi chúng ta thay từ nào đóthì nghĩa của câu có biến động, hoặc cải biên kết cấu cú pháp nghĩa của câu cũngcó biến dạng.Chẳng hạn: Tôi ăn cơm – Tôi ăn thịtTôi uống nước – Tôi uống bia.Sự luân phiên giữa ăn – uống, cơm – nước – thịt – bia có các nghĩa biểu vậtkhác nhau, mặc dù nghĩa biểu hiện không thay đổi. Ngược lại, nếu cải biên: Cơmtôi ăn (còn) thịt tôi không ăn cho ta ý nghĩa cú pháp và ý nghĩa biểu vật khácnhau.Vì vậy, ý nghĩa ngữ pháp của một câu không phải là ý nghĩa cụ thể thông thườngcủa từ mà là ý nghĩa khái quát của từ và các vị trí của các từ đó trong quan hệkết cấu câu. Điều đó cho phép phân biệt câu đúng ngữ pháp mà không có nghĩa vàmỗi kết cấu cú pháp có một ý nghĩa riêng của nó ngoài ý nghĩa của từ được dùngtrong câu. Nếu cấu trúc của câu không rõ ràng chúng ta sẽ hiểu câu đó một cáchmập mờ:Ví dụ:(a) Đồng chí công an đuổi theo tên ăn trộ m đang chạy trên đường phố.(b) Cô đang nói chuyện với Loan là bạn tôi.Câu (a) mơ hồ vì vị trí của kết cấu đang chạy trên đường phố. Kết cấu này là vịngữ của chủ ngữ Đồng chí công an hay là vị ngữ của kết cấu chủ vị tên ăn trộmđang chạy [1]... Mối quan hệ của trật tự cấu trúc ở câu này không rõ, tạo nên mấycách nhận nghĩa của câu. Câu (b) gây ra 2 cách hiểu: cô đang nói chuyện là bạntôi, hoặc, Loan là bạn tôi.Quan hệ vị ngữ của toàn câu và kết cấu chủ--v ...