Trong thời gian gần đây, huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp bộc pháp dịch bệnh chồi rồng trên nhãn gây thất thu nghiêm trọng. Nếu diện tích nhãn ở Đồng Tháp 5087 ha thì huyện Châu Thành có 3713 ha, trên 80% đang bị bệnh chổi rồng nằm. Nhà vườn hiện rất hoang mang vì nhãn là nguồn thu nhập chính của phần lớn nhà vườn ở huyện. Giai đoạn đầu do chưa nắm rõ nguyên nhân nên nông dân rất lúng túng trong phòng trừ dẫn đến tiến mất tật mang. Rất nhiều nông dân đốn nhãn để chuyển...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản Lý Bệnh Chổi Rồng Trên Nhãn Quản Lý Bệnh Chổi Rồng Trên Nhãn Trong thời gian gần đây, huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp bộc pháp dịch bệnh chồi rồng trên nhãn gây thất thu nghiêm trọng. Nếu diện tích nhãn ở Đồng Tháp 5087 ha thì huyện Châu Thành có 3713 ha, trên 80% đang bị bệnh chổi rồng nằm. Nhàvườn hiện rất hoang mang vì nhãn là nguồn thu nhập chính của phần lớn nhàvườn ở huyện. Giai đoạn đầu do chưa nắm rõ nguyên nhân nên nông dân rấtlúng túng trong phòng trừ dẫn đến tiến mất tật mang. Rất nhiều nông dânđốn nhãn để chuyển qua trồng cam. Đến nay mặc dù Viện Nghiên cứu câyăn quả miền Nam đã xác định bệnh chồi rồng do vi khuẩn được truyền bởinhện lông nhung, nhưng nông dân vẫn gặp lúng túng trong công tác phòngtrừ. Đây không phải là loại bệnh mới, nó được ghi nhận đầu tiên ở TrungQuốc năm 1941 tại tỉnh Phúc Kiến, 17 huyện/quận/thành phố trồng nhãn củatỉnh này bị thiệt hại từ 20-100%. Sau đó lan qua tỉnh Quảng Đông, QuảngTây, Vân Nam và Hồng-Kông. Bệnh cũng xuất hiện ở Thái Lan và Brazil(Kitijima et al., 1986; Koizumi et al., 1995; Menzel et al., 1989; So and Zee,1972; Zhu et al., 1994). Về nguyên nhân gây bệnh, Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Namcho bệnh chổi rồng do vi khuẩn, nhưng các nghiên cứu ở Trung Quốc chothấy bệnh chồi rồng do virus hình que dài 700-1.300 nm (Ye et al. 1990;Chen et al. 2000), trong khi Thái Lan lại cho là do phytoplasma (Chantrasriet al., 1999; Visitpanich et al., 1999). Cả 3 đối tượng này đều rất khó trị. TạiThái Lan cho thấy tiêm thuốc kháng sinh Pyrrodinimethyl tetracycline(PMT) gần chồi bệnh, bệnh biến mất sau 1-2 tháng (Ungasit et al., 1999).Một cách trị bệnh khác ở Thái Lan hong nóng cành bệnh ban ngày 40°C banđêm 30°C trong 40-90 ngày giảm bệnh 10-20%, áp dụng trong sản xuấtgiống sạch bệnh Về môi giới truyền bệnh, Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam đãxác định là nhện lông nhung (Eriophyes dimocarpi). Kết quả này cũng phùhợp với nghiên cứu của nhóm tác giả Trung Quốc (Oirui và ctv., 2003).Nhưng các thử nghiệm tại Trung Quốc cho thấy có thêm bọ xít nhãn(Tessaratoma papillosa) và sâu đục gân lá (Cornegenapsylla sinica) là môigiới truyền bệnh. Bệnh còn xuất hiện trên dây tơ hồng (Cuscuta campestris).Nhưng vậy so với các bệnh bệnh greening trên cam quít chỉ do rầy chổngcánh, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá do rầy nâu truyền, bệnh chổi rồng trên nhãnphức tạp hơn vì đến nay trên thế giới phát hiện có ít nhất 3 con côn trùng cókhả năng truyền bệnh. Cũng giống như bệnh greening trên cam quít, bệnh chổi rồng truyềnmắt ghép. Nhưng nó phát tán nhanh hơn vì còn truyền qua hạt và đang nghicó khả năng truyền bệnh qua hạt phấn, có thể đây là lý do trong thời gianngắn, bệnh chổi rồng lây lan nhanh ở các vùng trồng nhãn đồng bằng sôngCửu Long chiếm 70-80% diện tích trồng nhãn.Dựa trên các hiểu biết về tác nhân gây bệnh, nguồn lây lan và môi giớitruyền bệnh cũng như nguyên tắc quản lý chúng, (Chen et al., 1999b), sáuphương pháp quản lý dịch hại tổng hợp được đề xuất bao gồm:- Kiểm tra chặt chẽ vùng bệnh, nhất là khâu quản lý giống, tuyệt đối khôngsử dụng các vật liệu trong vùng bệnh như hạt, mắt, gốc ghép để nhân giống;- Chọn nhân các giống chống chịu tốt với bệnh. Tại Trung Quốc khuyến cáogiống kháng bệnh như ‘Lidongben’ và ‘Shuinan No. 1’, tại Thái Lan giốngDawn, Việt Nam bước đầu ghi nhận nhãn xuồng cơm vàng, nhãn long ;- Xây dựng vùng sản xuất giống sạch bệnh. Vùng này phải nằm cách ly vớicác vườn nhãn, nếu là vùng đang bị bệnh chổi rồng do nhện long nhung rấtnhỏ không có loại lưới nào chặn được.- Định kỳ phun thuốc trừ côn trùng là môi giới truyền bệnh. Việc phun xịtcần tiến hành đồng loạt để từng hiệu quả phòng trừ, luân phiên thay đổithuốc để tránh hiện tượng kháng thuốc. Đối với nhện long nhung, phunthuốc lần đầu khi chớm xuất hiện chồi non sau 7 ngày cắt tỉa cành, sau đóphun định kỳ 7 ngày/lần giúp bảo vệ một phần các chồi non và làm giảmmức độ hại của hội chứng trổi rồng trên nhãn so với đối chưng không phun.(Vũ Mạnh Hà và Mai Văn Trị, 2006) Phun hỗn hợp giữa Cypermethrin vớiPetrolium Spray Oil (PSO) cho hiệu quả phòng trừ cao hơn so với cácnghiệm thức sử dụng đơn lẻ một loại thuốc Cypermethrin, Diafenthiuron,Lưu huỳnh và PSO. Việc phun thuốc cần thực hiện đồng loạt để tránh nhệndi chuyển- Loại bỏ các nhánh, bông nhãn bị bệnh đem hủy để diệt mầm bệnh và môigiới truyền- Chăm sóc nhãn bằng kỹ thuật bón phân, tưới nước và bồi dưỡng đất (Chenet al., 2001).- Trong các giải pháp, giải pháp nhân nhanh giống chống chịu bệnh chổ irồng. Điển hình tại Thái Lan, giống Dawn được nhân nhanh giống chiếm85% (Yan Diczbalis 2002) đã giúp Thái Lan khống chế được bệnh, sảnlượng nhãn của Thái tăng từ 40.000 tấn năm 1997 lên 230.000 tấn năm 2007 ...