Danh mục

Quy định pháp lý về lãi suất cho vay thực tế trong hợp đồng tín dụng ở Mỹ và EU

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 282.20 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 9,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết này trình bày một số quy định về lãi suất cho vay trong hợp đồng tín dụng của pháp luật Việt Nam và trên cơ sở giới thiệu những quy định về cách tính lãi suất cho vay thực tế ở Mỹ và các nước trong liên minh châu Âu, tác giả khuyến nghị việc nhanh chóng đưa quy định về việc tính và công bố lãi suất thực tế trong các hợp đồng tín dụng vào hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quy định pháp lý về lãi suất cho vay thực tế trong hợp đồng tín dụng ở Mỹ và EU HỘI THẢO NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ LÃI SUẤT CHO VAY THỰC TẾ TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG Ở MỸ VÀ EU ThS. Phan Đình Anh Khoa Tài chính Ngân hàng, Trường Đại học kinh tế Đà Nẵng TÓM TẮT Bài viết này trình bày một số quy định về lãi suất cho vay trong hợp đồng tín dụng của pháp luật Việt Nam và trên cơ sở giới thiệu những quy định về cách tính lãi suất cho vay thực tế ở Mỹ và các nước trong liên minh châu Âu, tác giả khuyến nghị việc nhanh chóng đưa quy định về việc tính và công bố lãi suất thực tế trong các hợp đồng tín dụng vào hệ thống pháp luật Việt Nam 1. Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất cho vay trong hợp đồng tín dụng Lãi suất là nội dung cơ bản và không thể thiếu trong các hợp đồng tín dụng, có nhiều cách diễn đạt khác nhau về bản chất của lãi suất tùy thuộc vào vị thế của người xem xét, nhà đầu tư, đầu cơ xem lãi suất là chi phí cơ hội của khoản vốn đầu tư, người cho vay coi đó là tỷ suất sinh lợi của khoản vốn cho vay, người đi vay xem lãi suất là chi phí sử dụng vốn vay. Các định nghĩa về lãi suất cũng có sự khác nhau về cách diễn đạt, tuy nhiên, hầu hết đều thống nhất rằng, lãi suất là tỷ lệ phần trăm (%) của số tiền lãi phải trả so với số tiền gốc vay trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy, trong mối quan hệ với tiền lãi thì lãi suất là một yếu tố cần thiết để tính tiền lãi phải trả và vì nó được thể hiện dưới dạng số tương đối (%) nên người đi vay có xu hướng sử dụng lãi suất để đại diện cho số tiền lãi phải trả cho việc sử dụng vốn vay. Phù hợp với quan điểm này, trong quy định phương pháp tính, hoạch toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng, ban hành theo quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/05/2001của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, thì Lãi vay được hiểu là khoản tiền bên vay trả cho bên cho vay về việc sử dụng vốn vay. Lãi vay được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất, quy định này cũng chỉ rõ việc sử dụng phương pháp tính lãi đơn để tính tiền lãi từ mức lãi suất công bố trong hợp đồng vay. Về mức lãi suất cho vay hợp lệ trong các hợp đồng tín dụng được quy định theo Điều 476, bộ luật dân sự 2005 như sau : 1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. 2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Điều 163, Bộ luật hình sự có quy định trường hợp cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ 10 lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột thì sẽ phạm tội cho vay lãi nặng. Nhiều thông tư hướng dẫn của ngân hàng nhà nước về mức lãi suất cho vay thường đưa ra một mức trần về lãi suất cho vay được phép đối với các tổ chức tín dụng. 2. Sự cần thiết phải công bố lãi suất cho vay thực tế trong các hợp đồng tín dụng Có thể thấy, một trong những mục đích của những quy định về mức lãi suất cho vay hợp lệ trong hợp đồng tín dụng của pháp luật Việt Nam là nhằm đặt ra một mức trần về chi phí mà người đi vay phải trả cho việc sử dụng vốn vay, tránh tình trạng cho vay nặng lãi, vượt quá khả năng gánh chịu của người đi vay. Tuy vậy, khái niệm lãi suất được đề cập đến trong luật dân sự 2005, và các 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG văn bản dưới luật không chỉ rõ loại lãi suất và dễ được hiểu thành khái niệm lãi suất công bố hay lãi suất danh nghĩa, là lãi suất được ghi vào các hợp đồng tín dụng ở nội dung lãi suất vay vốn, và được sử dụng để tính tiền lãi vay như hướng dẫn trong quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN. Lãi suất danh nghĩa trong các hợp đồng tín dụng được hiểu là số tiền lãi người vay phải trả cho mỗi một đồng vốn trong một đơn vị thời gian , như vậy với lãi danh nghĩa là in , số vốn vay là V, thời hạn vay là T đơn vị thời gian, thì số tiền lãi phải trả theo lãi suất danh nghĩa cho việc sử dụng vốn trong giai đoạn T đơn vị thời gian là I T V in T Trong khi đó, đối với các hợp đồng tín dụng, lãi suất danh nghĩa không phản ánh đúng và đầy đủ chi phí sử dụng vốn của người đi vay, do các hợp đồng tín dụng có cấu trúc không đồng nhất về phương pháp tính lãi, thời điểm trả lãi, điều kiện giải ngân, cách thức giải ngân, thu nợ... và các khoản chi phí mà người đi vay phải bỏ ra để đạt được khoản tín dụng và trong quá trình sử dụng vốn vay, vì vậy, lãi suất danh nghĩa không đại diện cho toàn bộ chi phí mà người đi vay phải gánh chịu, phân tích dưới đây sẽ làm rõ hơn điều này 2.1. Trường hợp người đi vay chỉ phải trả tiền lãi cho việc sử dụng vốn 2.1.1. Lãi suất danh nghĩa khác nhau về phương pháp tính lãi là không thể so sánh Phương pháp tính lãi có thể sử dụng có thể là phương pháp tính lãi đơn hoặc phương pháp tính lãi kép. Phương pháp tính lãi đơn là phương pháp tính lãi mà lãi của bất kỳ một kỳ nào trước đó cũng không được gộp vào vốn gốc để tính lãi cho kỳ tiếp theo. Phương pháp tính lãi gộp là phương pháp tính lãi mà trong đó lãi của kỳ trước được tính gộp vào vốn gốc để tính lãi cho kỳ tiếp theo. Để tính được lãi gộp phải biết tần số gộp lãi (lãi có thể được tính gộp hằng năm, hằng tháng hoặc hằng ngày.... và tần số gộp lãi có thể được định nghĩa là số lần gộp lãi trong một năm). Hợp đồng tín dụng có quy mô V, lãi suất danh nghĩa là in/năm, với phương pháp tính lãi đơn tiền lãi người đi vay phải trả cho giai đoạn T (năm) sẽ là I T ,d V in T , với phương pháp tính ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: