Danh mục

Quyền biểu tình

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 109.76 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong khi chờ ra Luật biểu tình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần sử dụng thẩm quyền giải thích Hiến pháp để giải thích điều 69 của Hiến pháp, tạo điều kiện thực thi quyền biểu tình trên thực tế.Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII, trong phiên thảo luận về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, đại biểu Dương Trung Quốc và Trương Trọng Nghĩa kiến nghị Quốc hội sớm xem xét xây dựng, thông qua Luật biểu tình. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quyền biểu tình Quyền biểu tìnhTrong khi chờ ra Luật biểu tình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần sử dụng thẩmquyền giải thích Hiến pháp để giải thích điều 69 của Hiến pháp, tạo điều kiện thựcthi quyền biểu tình trên thực tế.Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII, trongphiên thảo luận về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, đại biểuDương Trung Quốc và Trương Trọng Nghĩa kiến nghị Quốc hội sớm xem xét xâydựng, thông qua Luật biểu tình. Như vậy là khái niệm biểu tình đã được nêu mộtcách chính thức tại Quốc hội, cơ quan có thẩm quyền lập pháp cao nhất ở ViệtNam.Tuy nhiên, trên thực tế, khái niệm biểu tình không hề xa lạ ở Việt Nam. Ngay từnăm 1946, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh về biểu tình, xác lập quyền biểu tình củangười dân. Hiến pháp 1992 cũng ghi nhận: “Công dân có quyền biểu tình theo quyđịnh của pháp luật”. Chỉ có điều, dòng chữ mơ hồ “theo quy định của pháp luật”đã khiến cho một quyền của người dân được hiến pháp ghi nhận nhưng lại khôngđược thực thi với lý do chưa có luật. Theo ông Dương Trung Quốc, thời gian quacó tình trạng người dân “tụ tập” bày tỏ chính kiến, bày tỏ lòng yêu nước của mìnhmột cách trật tự, nhưng việc này chưa có quy định cụ thể trong luật pháp nên vừagây khó khăn cho dân vừa gây khó khăn cho các lực lượng bảo vệ trật tự.Sự cần thiết cần phải có luật biểu tình ở Việt Nam trong thời gian sớm nhất cũngxuất phát từ những nguyên tắc đã được Hiến pháp quy định như nhà nước phápquyền của dân, do dân, vì dân, là cách thức để nhân dân thể hiện thái độ, tư cáchlàm chủ đất nước. Đây là một kênh thông tin để Nhà nước nắm bắt tâm tư nguyệnvọng của người dân. Đây là đòi hỏi của một xã hội dân chủ, thể hiện giá trị dânchủ đã được nhấn mạnh trong văn kiện của Đại hội Đảng mới đây nhất.Để cụ thể hóa quyền biểu tình, luật về biểu tình cần trả lời các câu hỏi như: biểutình là gì; cơ quan nào có thẩm quyền cho phép biểu tình; thông báo, đăng ký khitổ chức biểu tình; cấm hoặc hạn chế một số hình thức biểu tình trong một sốtrường hợp; cấm và thời gian cấm biểu tình; phạm vi cấm biểu tình; cấm sử dụngloa ở một số địa điểm; vấn đề quy trách nhiệm của cá nhân, tổ chức (ví dụ, nhữngngười đứng ra tổ chức biểu tình có phải chịu trách nhiệm hay không về các hành vivi phạm hình sự của những người tham gia biểu tình); trách nhiệm của cơ quanNhà nước (ví dụ, bảo đảm an ninh, trật tự cho những người biểu tình; theo dõikhông để xảy ra xung đột, bạo loạn…); chế tài xử phạt; quyền hạn chế hoặc giảitán cuộc biểu tình của Nhà nước (ví dụ, hạn chế số người tham gia, hạn chế về thờigian, địa điểm…); khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến quyền biểu tình v.v…Đặcbiệt, cần lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về dự thảo luật biểu t ình.Nhìn lại các sự kiện biểu tình trong thời gian gần đây, nếu Việt Nam đã có luật vềbiểu tình với những quy định cụ thể, rõ ràng thì dễ ứng xử hơn cho cả hai phíachính quyền và người dân. Trả lời ý kiến của các ĐBQH cần bổ sung Luật biểutình và một số Luật khác vào Chương trình lập pháp năm 2012, Ủy ban Thường vụQuốc hội đề nghị Quốc hội “cho được tiếp tục nghiên cứu, chuẩn bị để trình Quốchội khi đủ điều kiện quy định”. Như vậy là vẫn phải chờ đợi thêm ít nhất vài nămđể có Luật biểu tình.Bên cạnh đó, ngay cả khi chưa có Luật biểu tình, nếu theo đúng tinh thần của phápquyền, quyền biểu tình hiến định của công dân vẫn phải được đảm bảo. Trongtrường hợp này, pháp quyền thể hiện trên các phương diện sau: Thứ nhất là chữ“Pháp” thể hiện ở chỗ, Hiến pháp phải là đạo luật gốc, có tính chất tối thượng đốivới tất cả, trong đó có chính quyền. Mà Hiến pháp đã quy định công dân có quyềnbiểu tình, thì nghĩa vụ pháp lý của chính quyền là phải bảo đảm quyền đó. Nếuchính quyền chưa ban hành được luật, thì đó không phải là lỗi của người dân; vànghĩa vụ pháp lý của chính quyền là phải tìm cách khác để bảo đảm quyền củacông dân. Thứ hai là chữ “Quyền” thể hiện ở chỗ, công dân được làm những gìpháp luật không cấm, trong khi đó, thậm chí quyền đó đã được cho phép rõ ràngtrong Hiến pháp, không lẽ gì quyền của người dân không được thực thi trên thựctế.Có thể bảo đảm quyền biểu tình của người dân theo cách như sau: Trong khi chờđợi Luật biểu tình ra đời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, với thẩm quyền giải thíchHiến pháp của mình, ra một Nghị quyết giải thích về quyền biểu tình, thực thiquyền biểu tình đã được quy định tại Điều 69 của Hiến pháp 1992. Nghị quyết n àycần ghi nhận những nội dung căn bản nhất như trên đã nói để việc thực thi quyềnbiểu tình dễ dàng cho người dân và thuận tiện cho chính quyền kiểm soát các cuộcbiểu tình diễn ra trật tự, đúng pháp luật. Nghị quyết này có hiệu lực cho đến khiLuật biểu tình được Quốc hội thông qua. Làm như vậy vừa tạo “đủ điều kiện” để“nghiên cứu, chuẩn bị” Luật biểu tình, đồng thời bảo vệ được quyền biểu tình củacông dân, qua đó bảo vệ nguyên tắc “pháp quyền XHCN” đã được ghi nhận trongHiến pháp 1992. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: